Cạnh tranh trong cơ chế thị trường
Thuật ngữ “cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La tinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi ích, mục tiêu xác định. ...
Thuật ngữ “cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La tinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi ích, mục tiêu xác định.
Kinh tế học định nghĩa cạnh tranh là sự tranh giành thị trường ( khách hàng ) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, cạnh tranh là một điều kiện và là yếu tố kích thích kinh doanh, là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, tạo sự phát triển của xã hội nói chung. Kết quả cạnh tranh sẽ tự loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và tất yếu những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ đứng vững trên thị trường.
Tuy nhiên, ngoài những mặt tích cực, cạnh tranh không lành mạnh cũng gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho xã hội như : gây tổn thất lãng phí cho xã hội, ô nhiễm môi trường .... Chính vì vậy, nhà nước cần có những giải pháp hữu hiệu để hạn chế những tác hại tiêu cực của cạnh tranh.
Có nhiều cách phân loại cạnh tranh dựa trên những tiêu thức khác nhau .
- Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, có ba loại
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau
- Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường, có 3 loại
- Cạnh tranh hoàn hảo : Là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người mua và người bán và không có người nào có ưu thế để có thể ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường.
- Cạnh tranh không hoàn hảo : Tình trạng thị trường không đạt được như trên, tức là có ít nhất một người bán hàng lớn đến mức có thể ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường.
- Cạnh tranh độc quyền : Đây là loại hình cạnh tranh mà trên thị trường chỉ có một số người bán một số sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không đồng nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra trên thị trường. Thị trường cạnh tranh độc quyền không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyền quyết định giá cả.
- Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế, có
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành : Là cuộc cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp trong cùng một ngành.
- Cạnh tranh giữa các ngành : Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng minh giữa các nhà doanh nghiệp trong các ngành kinh tế với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất.
Khái niệm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
WEF- “Báo cáo về khả năng cạnh tranh toàn cầu năm 1997”, định nghĩa : Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh tranh, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời thực hiện được những mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
Theo quan điểm tổng hợp của Wan Buren, Martin và Westqren ( 1991), khả năng cạnh tranh của một ngành ( một doanh nghiệp ) là khả năng tạo ra và duy trì lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước.
Như vậy, có thể hiểu khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là năng lực, khả năng về mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp : hoạt động sản xuất, hoạt động quản trị cũng như khâu tiêu thụ ... nhằm sản xuất ra được những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao với chi phí sản xuất thấp, được thị trường chấp nhận nhờ đó tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, không ngừng duy trì và mở rộng thị phần , xác lập cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Để phản ánh khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp, người ta dùng rất nhiều các chỉ tiêu khác nhau gồm các chỉ tiêu định lượng và các chỉ tiêu định tính.
- Các chỉ tiêu định lượng
- Thị phần của doanh nghiệp : Đây là một chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được đo bằng tỷ lệ phần trăm doanh số của công ty so với doanh số của toàn ngành. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao và ngược lại.
- Doanh thu : Dựa vào doanh thu có thể đánh giá được khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp là tốt hay không tốt. Để sử dụng được chỉ tiêu này thì doanh nghiệp có thể chọn từ 3 đến 5 đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong ngành để đưa ra so sánh và kết luận.
Chỉ tiêu này dễ tính, đơn giản nhưng nhược điểm là dôi khi không chính xác và khó lựa chọn ra doanh nghiệp nào là mạnh nhất.
- Tỷ suất lợi nhuận : Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và cũng thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công thức tính :
- Quy mô về vốn : Một doanh nghiệp có tổng vốn kinh doanh lớn sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn do có điều kiện mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ.
- Năng suất lao động: Được đo bằng giá trị sản lượng / một công nhân. Năng suất lao động càng cao phản ánh doanh nghiệp càng có khả năng giảm chi phí, hạ giá thành, do đó có khả năng cạnh tranh càng cao trên thị trường.
- Giá thành sản xuất : Phản ánh khả năng cạnh tranh về giá của doanh nghiệp. Giá thành sản xuất càng thấp, giá bán càng giảm, do đó sẽ tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
- Các chỉ tiêu định tính
- An toàn trong kinh doanh : Chỉ tiêu chủ yếu về an toàn trong kinh doanh là đa dạng hoá đầu tư và sản phẩm với kết quả cuối cùng là bảo đảm và phát triển nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
- Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường : Các doanh nghiệp phải xây dựng nhãn hiệu riêng của mình và khi đọc đến tên nhãn hiệu người tiêu dùng trên toàn thế giới có thể phân biệt được tiềm lực, chất lượng, phương thức phục vụ của sản phẩm này như thế nào so với các sản phẩm khác.