21/02/2018, 09:46

Cảm nhận về truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu

– Bài làm 1 Nguyễn Minh Châu là một cây bút văn xuôi rất xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Trước năm 1975, với những tác phẩm như Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng, Cửa sông mang tính chất sử thi, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện hình ảnh những con người tràn ngập cảm hứng lãng ...

– Bài làm 1

Nguyễn Minh Châu là một cây bút văn xuôi rất xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Trước năm 1975, với những tác phẩm như Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng, Cửa sông mang tính chất sử thi, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện hình ảnh những con người tràn ngập cảm hứng lãng mạn, tươi tắn, trẻ trung. Nhưng khi chiến tranh đã đi qua, anh đã nhìn ra được sự đổi thay của con người, những đời người nặng trĩu đau thương nhưng vẫn nồng nàn với cuộc sống. Nhà văn đã khám phá thế giới nội tâm ở mỗi con người trong những tình huống đầy nghịch lý. Bến quê – một truyện ngắn trong tập truyện cùng tên được xuất bản năm 1985 đã thể hiện điều đó.

Đây là một tác phẩm đặc sắc mà Nguyễn Minh Châu đã lồng vào đó những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời, thức tỉnh ở mọi người sự trân trọng những vẻ đẹp bình dị, gần gũi của gia đình, của quê hương.

Câu chuyện viết về số phận của Nhĩ, một người đàn ông đã từng được đi nhiều nơi, "đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất” nhưng lại quên cái vẻ đẹp bình dị và gần gũi nhất với mình đó là cái bãi bồi bên kia sông ngay trước cửa sổ nhà mình, nơi anh chưa một lần đặt chân đến. Khi Nhĩ bị liệt toàn thân, đối diện với cái chết, Nhĩ cảm thấy bãi bồi ấy thật ý nghĩa. Một sáng mùa thu, khi hướng cái nhìn ra xa, anh bắt gặp bãi bồi bên kia sông Hồng, lòng trỗi dậy khát vọng được sang bên đó. Nhưng bệnh tật đã buộc chặt anh vào chiếc giường nhỏ bé, Nhĩ muốn nhích tới cửa sổ mà khó khăn như phải đi hết cả vòng trái đất. Thật là nghịch lý đáng buồn. Bãi bồi ở quê hương người vợ của anh thật gần mà anh không thể nào đến được. Anh đã bỏ mất cơ hội của đời người, để rồi khi nhận ra thì đã muộn. Khát vọng cũng chỉ là khát vọng. Nhĩ chỉ còn hi vọng cậu con trai sẽ thay mình đi qua bên ấy, nhưng cậu con trai không đồng cảm với bố, nó sa vào một đám chơi cờ thế và để lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Chính ở những ngày cuối đời, anh mới thực sự trân trọng cái bãi bồi ở quê hương, xứ sở, mới cảm nhận được vẻ đẹp của dòng sông Hồng uốn lượn, bầu trời cao rộng, bãi cát phẳng lì, những hàng cây bằng lăng tím nở hoa duyên dáng. Đó là những cảnh vật rất gần gũi nhưng lại rất mới mẻ đối với Nhĩ, nó là vẻ đẹp của cuộc sống, vẻ đẹp bình dị của quê hương xứ sở mà Nhĩ có cảm giác như đã lãng quên trong cuộc đời. Khi nhận ra vẻ đẹp ấy thì anh không thể làm gì được nữa. Anh chỉ biết khát khao.

Có thể nói nghệ thuật xây dựng hình ảnh mang tính biểu tượng của nhà văn đã giúp chúng ta hiểu sâu hơn về tâm lí nhân vật, khám phá nhiều điều trong tâm hồn một con người đang tàn tạ vì bệnh tật. Cũng ở những ngày cuối đời này, Nhĩ mới nhận ra cái tần tảo của vợ. Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liền đang mặc tấm áo vây cảm nhận những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai và Nhĩ đã nhận ra tất cả tình yêu thương, sự thầm lặng yêu thương của vợ. Nhĩ đã thực sự biết ơn vợ, thấu hiểu tấm chân tình của vợ, nhưng khi hiểu ra thì sự sống của anh chẳng còn bao lâu nữa. Nhĩ cảm thấy mình quá vô tình với vợ, cũng như vô tình lãng quên vẻ đẹp của bãi bồi quê hương. Có lẽ khi còn trẻ, Nhĩ đã lao vào những ham muốn xa vời, từng trải trong cuộc đời nên thấm thía những buồn vui và cay đắng. Điều nghịch lí hơn nữa là hình ảnh tuyệt vọng của Nhĩ. Niềm hi vọng duy nhất là nhờ cậu con trai giúp anh thỏa niềm mong ước cuối cùng, nhưng cậu con trai lại thực hiện một cách miễn cưỡng và còn bị cuốn hút vào trò chơi phá cờ thế trên đường. Có lẽ con trai chẳng thấy được vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông, không thấy được cái đáng yêu của quê nhà nên mới chùng chình, vòng vèo như thế. Hành động của cậu con trai phải chăng là hành động của Nhĩ ngày nào. Chính vì vậy Nhĩ đã suy ngẫm, nghĩ ra một triết lý sâu xa. Nhĩ chiêm nghiệm được cái qui luật phổ biến của đời người: Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái vòng vèo hoặc chùng chình.

Anh không trách đứa con trai bởi nó giống anh ngày trước. Anh chỉ biết ân hận, xót xa và tuyệt vọng. Xót xa vì khi còn trẻ không gắn bó với quê hương, gắn bó với gia đình, để đến khi cuối đời anh mới nhận ra quê hương và gia đình rất quan trọng đối với anh. Anh hiểu ra những giá trị bền vững, những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời thật ý nghĩa mà anh đã lãng quên. Anh đã hướng tới những giá trị đích thực, hướng tới cái thực tại đầy ý nghĩa ở quanh mình. Đáng lí ra chính Nhĩ phải phát hiện từ sớm để gắn bó với quê hương, gia đình và người thân, gắn bó để cuộc đời Nhĩ có ý nghĩa hơn. Nhĩ cần thấy cái bến quê đáng yêu ở thời điểm sớm hơn để cuối cuộc đời không thấy tiếc.

Bến quê đã thành công nổi bật ở sự miêu tả tinh tế tâm lí và cảm nghĩ của nhân vật, thành công trong bút pháp xây dựng nhiều hình ảnh giàu tính biểu tượng, đặt nhân vật vào những tình huống đầy nghịch lí để khắc họa tính cách, tư tưởng của con người, cũng như thể hiện triết lí về cuộc đời. Tác phẩm mang phong cách hiện đại, thể hiện những chiêm nghiệm, trăn trở của một nhà văn nặng lòng với cuộc sống mới sau chiến tranh. Tác phẩm đã minh chứng cho sự đổi thay của một thời kì văn học mới, văn học hiện đại Việt Nam.

Bến quê thức tỉnh mọi người ở sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị; gần gũi của gia đình và của quê hương. Rút ra bài học cuộc sống từ nhân vật Nhĩ, ta hãy sống cho thật ý nghĩa, đừng láng phí thời gian, đừng lãng phí tuổi trẻ. Hãy sống và cống hiến, sống có mục đích, có lí tưởng tốt đẹp.

– Bài làm 2

Nguyễn Minh Châu (1930-1989) quê ở huyện Quỳnh Lưu – Nghệ An là một nhà văn quân đội – một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học chống Mỹ. Sau khi đất nước thống nhất, các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã thể hiện những tìm tòi quan trọng về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần đổi mới văn học nước ta từ những năm 80 của thế kỷ XX. Truyện ngắn Bến quê in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985. Trong truyện ngắn này, ngòi bút của nhà văn hướng vào đời sống thế sự nhân sinh thường ngày, với những chi tiết sinh hoạt đời thường để phát hiện những chiều sâu của cuộc sống với bao quy luật và nghịch lý, vượt ra khỏi cách nhìn, cách nghĩ trước đây của cả xã hội và của chính tác giả   

Quê hương là một thứ rất gần gũi và nó vốn rất quan trọng trong cuộc sống mỗi người dân Việt Nam bởi:

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nỏi thành người    

Còn đối với Nguyễn Minh Châu thì quê hương cũng như thế cũng gần gũi cũng quen thuộc nhưng một sự đáng tiếc ở đây là sau khi đi khắp nơi trên tận cùng trái đất và cuối đời khi nằm trên giường bệnh thì nhân vật trong truyện –nhân vật Nhĩ mới có thể hiểu được những nét gần gũi bình dị đến lạ thường điều mà bấy lâu nay dương như anh đã lãng quên. Hình ảnh bến quê (ngay ở nhan đề tác phẩm) gợi ra từ hình ảnh thực: thuyền – bến, nơi neo đậu, đi về của những con thuyền, con đò khái quát thành nghĩa biểu tượng nơi bến đỗ của đời người, chốn đi về, nơi nương dựa của mỗi người, đó chính là gia đình, quê hương…     

Nhĩ – nhân vật chính của truyện – từng đi khắp nơi trên trái đất, cuối đời bị lâm bệnh hiểm nghèo, đến nỗi không thể tự chuyển dịch lấy vài mươi phân trên chiếc phản gỗ kê bên cửa sổ. Nhưng chính lúc này, Nhĩ phát hiện ra bãi bồi bên kia sông của quê hương mình thật đẹp, thật quyến rũ. Và cũng phải đến lúc này, Nhĩ mới cảm nhận được hết sự tần tảo vất vả, tình yêu thương và đức hi sinh thầm lặng của vợ mình là chị Liên. Trong lòng anh bỗng trào dâng một khao khát: được đặt chân một lần lên cái bờ bãi bên kia sông. Anh nhờ cậu con trai thực hiện giùm mình ước mơ ấy. Đứa con không hiểu ý bố nên nhận lời một cách miễn cưỡng. Trên đường đi, cậu ta lại sa vào đám chơi phá cờ trên hè phố và để lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Từ tình huống này, Nhĩ chiêm nghiệm ra được cái quy luật phổ biến của đời người:”Con người ta trên đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo chùng chình trong cuộc sống..”Cuối truyện, khi thấy con đó ngang chạm mũi vào bờ bên này, Nhĩ thu hết tàn lực cuối cùng của mình để đu mình nhô ra ngoài cửa sổ, giơ cánh tay gầy guộc ra khoát khoát y như đang khẩn thiết thúc giục.  

Nhân vật Nhĩ trong truyện được tác giả đặt vào một tình cảnh chớ trêu khi mà đến cuối đời ông mới nhận ra một điều hiển nhiên về quê hương mình.Đặt nhân vật vào trong tình cảnh nghịch lý ấy tác giả muốn đẫn bạn đọc đến những trải nghiệm về cuộc đời cuộc sống con người vốn đầy những điều bất thường, những nghịch lý, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của con người.Qua những suy nghĩ của nhân vật, Nguyễn Minh Châu còn muốn mang đến cho bạn đọc một chiêm nghiệm khác: “con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình” và sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp rất gần gũi như cái bãi bồi bên kia sông hay người vợ tảo tần, giàu tình yêu và đức hi sinh thì phải đến lúc này, khi sắp giã biệt cuộc đời, Nhĩ mới cảm nhận, thấm thía được.Trong buổi sáng đầu thu đẹp trời khi ngồi bên cánh cửa nhìn ra cái mảnh đất bên kia sông Nhĩ bỗng nhận ra những điều thú vị ở thế giới bên bờ sông kia,vùng đất mà anh chưa hề được đặt chân sang.Đóa là một không gian rộng lớn có chiều sâu và bề rộng từ những bông bằng lăng bên ngoài cửa sổ đến con sông hồng màu đỏ nhạt khi đã vào thu,vòm trời và bãi bồi bên sông.Đó là một cảnh đẹp chỉ có thể cảm nhận được bằng những cảm xúc tinh tế: những chùm hoa thưa thớt nhưng lại đậm sắc hơn, mặt sông Hồng như rộng thêm ra, vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông…”. Những cảnh sắc ấy vốn rất quen thuộc, gần gũi nhưng lại như rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng chừng như lần đầu tiên anh mới gặp.Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống, những giá trị thường bị người ta bỏ qua hay lãng quên khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn, đang lấn át. Trong hoàn cảnh của Nhĩ, đó là sự thức tỉnh xen lẫn với niềm ân hận và nỗi xót xa. 

Và khi anh nhận ra những cảnh vật đẹp đến lạ thương ở vùng bên kia thì anh sai đứa con trai của mình đặt những bước chân sang bên đó giúp anh khám phá vùng đất ấy nhưng cuối cùng đứa con trai mải chơi quên lời bố dặn và đã bị lỡ chuyến đò sang sông.Khi nhìn đứa con trai chơi phá cờ thì ý nghĩ con sẽ không kịp chuyến đò cứ quanh quẩn trong đầu Nhĩ “Nhĩ nghĩ một cách buồn bã,  con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, và lại nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu?". Ý nghĩ ấy mang một triết lý nhân sinh sâu sắc về đường đời và những mục tiêu trong cuộc sống.Tuổi trẻ và thời gian trong Nhĩ đã bị lãng phí và để rồi Nhĩ ngồi đây “đỏ hoe con mắt”dõi theo bóng đứa con sang bờ sông bên kia khấm phá  

Hình ảnh ông cụ Khuyến sáng nào đi qua cũng ghé sang nhà Nhĩ là một hình ảnh nhân nghĩa ân tình.Đó là một tình cảm thiêng liêng và sâu sắc của láng giềng của tình cảm giữa những người cùng quê hương.Đó là một tình cảm mà dù Nhĩ có đi tất cả mọi nơi trên trái đất này cũng không thể tìm kiếm được và cũng không có một tình cảm nào thay thế được nó,Một câu hỏi thăm về sắc khỏe khiến cho người đang mắc bệnh ấm lòng hơn cảm thấy yêu đời hơn khi mà mọi người luôn quan tâm đến mình cảm thấy mình sống trên đời vẫn còn ý nghĩa mọi người vẫn yêu thương mình.Được sống trong tình yêu thương của nhân loại mới thật là ý nghĩa biết bao,Và đó là màu sắc là ý vị trong cuộc đời  của chúng ta và là “bến quê” trong mỗi cuộc đời chúng ta  

Ở đoạn cuối tác giả đã tập trung khai thác và miêu tả chân dung của nhân vật chính với vẻ khác thường:Anh cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát – y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”. Hành động này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày, thế nhưng qua suy nghĩ của Nhĩ trước đó, ta lại nhận ra một ý nghĩa khác: đó là ý muốn thức tỉnh mọi người về những cái “vòng vèo, chùng chình” để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.  

Ngòi bút miêu tả của tác giả thật tinh tế ở chỗ  đã phát hiện những biến thái tâm lý trong nhân vật Nhĩ đã nhận ra bằng trực giác trước giờ phút cuối cùng đã đến trong câu hỏi mà Nhĩ hỏi Liên-vợ của Nhĩ “hôm nay là ngày mấy rồi nhỉ”nhưng tác giả không cho Liên trả lời thì đó chính là nhân đạo Liên cảm nhận được tình cảnh của Nhĩ nên chị đã lảng tránh.Người cha sắp rời khỏi cõi đời dường như đang giấu một tâm sự bí mật nào đó trong cai vẻ lúng túng.Đó là nhận xét của Nguyễn Minh Châu khi mà sai đứa con sang bãi bồi bên kia sông.Và trong cuộc đối thoại này tâm lý nhân vật Nhĩ đã được ngòi bút miêu tả rất tinh tế và tinh thần nhân đạo ở chỗ nó nói lên một cách sâu sắc ước mơ tâm nguyện của Nhĩ thật nhỏ nhoi giản dị nhường nào.Và sau đó Nhĩ nghĩ nhiều hơn về con người khi mà nhìn thấy đứa con trai mải chơi quên lời ba dặn và hình ảnh cuối cùng khi Nhĩ cố đu sức mình ra ngoài cửa sổ giơ cánh tay gầy guộc ra ngoài đều là những nét miêu tả tâm ký rất tinh tế và dặc sắc của tác giả

Tác phẩm được Nguyễn Minh Châu xây dựng nhiều hình ảnh, chi tiết mang ý nghĩa biểu tượng, có sức chứa lớn về cảm xúc, tư tưởng. Hầu hết những hình ảnh trong truyện đều mang hai nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó, thống nhất, khiến cho các hình ảnh không bị mất đi giá trị tạo hình và sức gợi cảm. Ý nghĩa biểu tượng được gợi ra từ hình ảnh thực và được đặt trong hệ quy chiếu của chủ đề tác phẩm.Tác phẩm nêu ra một ý nghĩa sâu sắc Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài dự định, ước muốn, cả những hiểu biết, toan tính của mỗi con người.

– Bài làm 3

Truyện ngắn Bến quê ( in trong tập truyện ngắn cùng tên, xuất bản năm 1985) được xây dựng trên một nghịch lí khác nghịch lí trong đường đời và cuộc đời của Nhĩ – nhân vật chính. Nhĩ là người đã đi đến không sót một xó xỉnh nào trên trái đất nhưng chẳng may mắc phải một căn bệnh hiểm nghèo buộc phải dán chặt tấm thân trên chiếc phản gỗ và một lần được vợ đỡ ngồi dậy anh chợt nhận ra rằng cái bãi bồi bên kia sông anh chưa đặt chân đến bao giờ. Một nỗi thèm khát kì lạ đã đến với anh: anh muốn chiếm lĩnh cái không gian liền kề này nên đã nhờ Tuấn– đứa con trai học đại học tại một thành phố phía Nam vừa mới nghỉ hè trở về– thay anh đặt bước chân vật chất thám hiểm bến sông. Anh muốn tận hưởng cái cảm giác “ chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa” ấy.

Từ lúc đứa con trai lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang gác, anh hồi hộp, gắng gom góp sức tàn để theo dõi con đò mỗi ngày một chuyến đang chống sào tách khỏi chân bãi bồi bên kia để sang bên này và anh cũng kịp nhận ra rằng, thằng Tuấn con anh đã chậm chân vì nách vẫn kè kè cuốn sách dịch và mải sa vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố. Thời gian được anh tính từng cái tích tắc thế mà thằng Tuấn có hiểu được anh đâu. Nhưng làm sao hiểu được khi nó chưa đối diện với sự ngắn ngủi nghiệt ngã của thời gian như anh. Anh ‘ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn hấy hết vẻ giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, bởi lẽ không bao giờ giải thích hết.”

Đường đời của nhân vật Nhĩ quả là đã được đo bằng các đơn vị lớn lao bằng vùng, miền, quốc gia, châu lục, đại dương và nhiệm vụ anh phải đảm nhiệm hẳn là rất quan trọng mang tầm quốc gia, dân tộc. Vậy mà giờ đây, anh phát hiện ra cái không gian trước mắt không quá một tầm nhìn từ cửa sổ nhà anh – chứ không hề là cái không gian vũ trụ trong tư thế “đăng cao, vọng viễn” gì cả, anh cũng không phải là người li hương gần suốt cả cuộc đời như Hạ Tri Chương xưa kia tóc đã điểm sương mới về quê cũ – mà lại xa lạ với cái gần gũi đến mức tự trách sao mình chưa đặt chân đến đó bao giờ. Trong tâm lí nhân vật, đây không phải là trạng thái nặng nề của sự cắn rứt lương tâm vì không có một dòng nào trong truyện phủ nhận những gì anh đã trải qua, đã sống và hiến dân cho sự nghiệp chung. Đây chỉ là một niềm hối tiếc pha chút ân hận: sao trong những năm tháng, trải bước khắp mọi phương trời, ta lại không một lần ngoái về để nhìn ra được vẻ đẹp của những gì thân quen, gần gũi nhất, nơi đã sinh ra ta, nuôi ta lớn thành người và sẽ là nơi ta nằm xuống mãi mãi trong lòng đất mẹ. Đó là bước thức nhận của tâm hồn và trí tuệ trên lộ trình dài dặc quanh co của đường đời.

Con người ấy, giờ đây muốn nằm, muốn ngồi đều cần sự nâng đỡ của vợ, con và những người hàng xóm đầy cảm thông và tốt bụng. Nhân vật đã thực hiện những phép so sánh đầy nghịch lí: “ Vừa nghe Tuấn nện lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang, Nhĩ đã thu hết tàn lực lết dần, lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra được bên ngoài phiến nệm nằm, anh tưởng như mình vừa bay được nửa vòng trái đất– trong một chuyến đi công tác ở một nước bên Mĩ La tinh hai năm trước. Anh vẫn chưa nhích đến được bên bậu cửa sổ. Anh phải nhờ bọn trẻ con nhà tầng dưới để đi hết “ nửa vòng trái đất” còn lại– từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản, khoảng cách ước chừng năm phục phân để dõi nhìn ‘ cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo” xem nó có kịp chuyến đò ngang duy nhất trong ngày không?

Cuộc đời Nhĩ, chưa phải là dài nhưng tuyệt đối không ngắn quá. Bằng chứng là thằng Tuấn – đứa con thứ hai của anh đã vào đại học tròn năm nhưng đến bây giờ là lần đầu tiên Nhĩ mới để ý thấy vợ mình – Liên– đang mặc tấm áo vá. Cảm thức mỗi ngày trôi qua với anh thật dài dằng dặc:

“ Hôm nay đã là ngày thứ mấy rồi em nhỉ?”

“ Anh cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được”

Trong cảm thức của anh, thời gian còn lại thật vô cùng ngắn ngủi: “ Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày”. “ Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát– y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó. Giây phút ấy ở Nhĩ còn khẩn cấp hơn cả tiếng gọi đò trên bến vắng My Lăng tự thuở nào: “ Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách/ Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng” ( bến My Lăng – Yến Lan).

Quá trình tâm lí tư tưởng ấy diễn biến trong cái không gian nhỏ hẹp của tấm phản, căn phòng, khung cửa sổ. Bến sông quê cạnh nhà gần gũi thế nhưng sao mà xa cách – trong tâm thế phát hiện lần đầu với nỗi vô vọng bất lực của nhân vật. Nó là không gian vi mô hiện lên trước cái nhìn cận cảnh trong sự đối sánh đầy chất đối nghịch với không gian vĩ mô tạo bỡi cái nhìn xa vào những chân trời quá khứ:

“– Anh cứ tập tành và uống thuốc cho đều. Sang tháng mười nhất định anh đi lại được

– Vậy thì đầu hoặc giữa tháng mười một, anh sẽ đi Thành phố Hồ Chí Minh một chuyến

– Đi thành phố Hồ Chí Minh thì chắc chẳng được nhưng anh có thể chống gậy đi trong nhà. Hoặc tiến triển tốt hơn, em có thể đỡ anh men cầu thang bước xuống một bậc…hoặc giả anh lại khoẻ hơn, chúng mình có thể bước xuống hai bậc

– Ừ, tưởng gì…nhất định đầu tháng mười anh sẽ đi ra được đến đầu cầu thang”

Cùng với không gian ấy là sự đối chứng của thời gian thực tại ngắn ngủi– đời thường với thời gian đời người mà Nhĩ đã trải qua. Cái Bến quê được đặt trong tương quan không – thời gian đó. Nó là tất cả những phát hiện ấm áp tình người, tình đời của nhân vật mà cũng là của tác giả trước những gì thân quen nhất, thân yêu nhất, những gì hồn nhiên, gần gũi nhất, những gì là giàu có, đẹp đẽ nhất, thuần phác nhất và cổ sơ nhất của mảnh đất sinh thành ra ta và sẽ nhận ta về khi nhắm mắt xuôi tay.

Bến quê theo ý nghĩa đó là một nhận thức sáng ngời của nhân vật về đường đời và cuộc đời. Nhưng thật oái oăm chính khi anh thức nhận ra được chân lí ấy thì anh lại không còn khả năng để thực hiện. Đó là sự bất lực của thực tiễn trước khát vọng đẹp đẽ lành mạnh như một yêu cầu tất yếu. Người đọc trân trọng Bến quê, trân trọng những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh ở mọi người hãy trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình của quê hương.

0