Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
– Bài làm 1 Lấy bối cảnh từ những hoàn cảnh có thật về cuộc sống của người dân Việt Nam trước nạn đói năm 1945, tác giả Kim Lân đã dựng lại một câu chuyện ấn tượng và thành công với miêu tả chân thực về cuộc sống, tình cảm đặc biệt là diễn biến tâm lí nhân vật. Trong bối cảnh ra đời, tác ...
– Bài làm 1
Lấy bối cảnh từ những hoàn cảnh có thật về cuộc sống của người dân Việt Nam trước nạn đói năm 1945, tác giả Kim Lân đã dựng lại một câu chuyện ấn tượng và thành công với miêu tả chân thực về cuộc sống, tình cảm đặc biệt là diễn biến tâm lí nhân vật. Trong bối cảnh ra đời, tác phẩm làm toát lên tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật “bà cụ Tứ”
Trong tác phẩm Vợ nhặt của tác giả Kim Lân, hình ảnh Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “long khòng”, khẽ mắt “lèm nhèm “,”khuôn mặt bủng beo, u ám “. Những hành động cử chỉ của cụ “nhấp nháy hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ” cũng thể hiện cụ là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói “ cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng”.
Bà cụ Tứ dù chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách.
Trước hết bà cụ Tứ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu sắc. Cụ thương người con trai của mình “cảm thấy ai oán xót thương cho số phận đứa con mình”.” Trong kẽ mắt kèm nhèm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã sớm lo lắng cho cuộc sống tương lai của đứa con mình” không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói này không”. Cụ tứ biết trong cái hoàn cảnh này không ai có thể vượt qua được cơn đói này,con trai bà là người nông dân chân chất nhưng cũng là người chung số phận trước nạn đói. Khi biết con trai “ tự dưng” có vợ, trong cái thời buổi đói khổ, không những bà không trách mà còn dành tình yêu thương cho người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị nghĩ:”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được”. Đó là tấm lòng người mẹ không khinh rẻ mà tỏ ra thông cảm thấu hiểu hoàn cảnh con dâu, thậm chí bà còn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình khi có con dâu mới. Điều đo chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người.
Tình yêu thương của bà cụ Tứ còn thể hiện qua những lời nói của bà cụ dành cho con “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…". Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót, đồng thời động viên con bằng triết lý dân gian”ai giàu ba họ ai khó ba đời, hướng con tới tương lai tươi sáng. "… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…". Câu nói ấy thể hiện tấm lòng thương xót cho số phận của những đứa con. Hành động giản dị “ sáng dậy xăm xăm quét nhà quét cửa” nhưng thể hiện tấm lòng người mẹ tuy nghèo nhưng hết lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới không nghi lễ, không đón đưa của đôi vợ chồng trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương và tấm lòng lo lắng của người mẹ nghèo.
Tuy được đặt trong hoàn cảnh éo le, nhưng chỉ qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Thứ nhất Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời”này lại là người nói về tương lai nhiều nhất” cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng” tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”. Chính tâm trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai.
Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy", cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị mất đi mà lại càng trở nên mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Và trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nàng dâu mới, nồi cháo cám “ chát xít, nghẹn bứ trong miệng” mà ngon ngọt trong lòng, ngọt bởi tấm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh.
Với sự tài ba trong việc miêu tả và khắc họa tâm lí nhân vật, tác giả Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945". Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Thêm vào đó, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật bản thân chúng ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Dẫu bà cụ Tứ chỉ là một nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm thiết tha trừu mến đối với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân dung nhân vật vừa sinh động, chân thực, day dứt với người đọc. Những hành động, lời nói của cụ, nụ cười trên khuôn mặt bủng beo u ám đã làm sáng bừng thiên truyện sau cái tối tăm, cái bế tắc của đói nghèo.
Truyện Vợ nhặt không chỉ thành công với ý nghĩa và triết lí cuộc sống mà nó mang lại mà còn thành công ở việc khai thác và khắc họa tâm lí nhân vật. Bà cụ tứ tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng với tài năng của mình Kim Lân vẫn để lại cho người đọc nhiều dư vị tốt đẹp và sâu lắng về nhân vật này.
– Bài làm 2
Truyện ngắn " Vợ nhặt " của nhà văn Kim Lân được viết trong khoảng thời gian xảy ra nạn đói khủng khiếp (1945),ông đã lấy chất liệu của cuộc sống để tái hiện hình ảnh thê thảm của nhân dân trong cảnh bần cùng. Qua đó khắc họa rõ nét các nhân vật. Đặc biệt nhân vật bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ xuất hiện trong tác phẩm là hình ảnh một người mẹ già, nghèo với nhiều lo toan,tính toán để kiếm ăn qua ngày:Bà xuất hiện với dáng đi lọng khọng,vừa đi vừa lẩm nhẩm, tính toán. Nhưng là người mẹ nhân từ, hiền hậu.
Tràng dẫn người "vợ nhặt" về giữa ngày đói khiến cho mẹ anh ban đầu hết sức ngạc nhiên,bất ngờ: Bà lão ngạc nhiên vì có người đàn bà nào lại đứng ngay ở đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Bà nghĩ mãi không phải con cái Đục, tự nhiên bà thấy mắt mình hình như nhoèn đi thì phải. Bà hết ngạc nhiên thì lại băn khoăn không biết người đàn bà kia là ai? Sao lại chào mình bằng u?
Khi Tràng giải thích rõ với bà:" Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau…". Nói đến đây thì bà hiểu, bà cúi đầu nín lặng, lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán,xót thương,ngậm ngùi,vừa lo lắng, xen lẫn cả mừng vui,nhưng có lẽ vui thì ít mà buồn tủi,xót xa,lo lắng thì nhiều. Bà nhìn người đàn bà một lần nữa. Bà là một người hiểu biết, có sự cảm thông,bao dung, độ lượng, bà hiểu con mình, bà hiểu hoàn cảnh của Thị. Bà biết rằng người ta có gặp bước khó khăn,đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, rồi thằng con mình mới có vợ được. Bà mừng vui vì bổn phận bà làm mẹ đã không lo nổi cho con,nay đã có được vợ nhưng bà cũng lo lắng không biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Bà tủi thân tủi phận vì người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm ra những mong sinh con đẻ cái sau này còn mình thì…
Bà không chỉ là người mẹ già, nghèo, hiểu con mà còn có tấm lòng nhân từ, cưu mang, đùm bọc, lấy niềm vui, hạnh phúc của con làm lẽ sống của mình. Bà sống vì con cái. Bà thổi lên ngọn lửa, niềm tin trong hoàn cảnh đói khát tăm tối ấy.
Bà nói với người dâu mới:" Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng ". Chỉ mấy từ giản dị: " u cũng mừng lòng " làm cho Thị như được an ủi, Tràng thì thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Bà còn an ủi: " Nhà ta thì nghèo con ạ ", rồi bà đưa ra triết lý:" Ai giàu ba họ, ai khó ba đời ". Điểm ấn tượng của người mẹ già này đối với người đọc là bà đã tạo ra một không khí vui vẻ cho gia đình. Bà thổi lên ngọn lửa ấm áp trong hoàn cảnh đói khát, tăm tối. Người ta thường nói: " trẻ tương lai – già hoài niệm " " người mẹ già gần đất xa trời này khi có nàng dâu mới lại toàn nói chuyện vui vẻ, bàn tính chuyện làm ăn ngày mai: sửa nhà, nuôi gà,… Bà tạo ra một không khí vui vẻ như muốn làm át đi không khí thê thảm của nạn đói khủng khiếp; những tiếng khóc hờ hững của những gia đình có người chết. Bà tiếp thêm sức mạnh, niềm tin để con cái vượt qua nạn đó, hướng đến một ngày mai tươi đẹp. Đặc biệt là bữa cơm mời nàng dâu mới, thật đạm bạc chỉ có một nồi cháo loãng, ít rau chuối thái rối, mỗi người hai lưng đã hết nhẵn, nhưng bà vẫn vui vẻ đon đả mời hai con niêu cháo cám: " chè khoán đây ngon đáo để cơ. " Ngay cả khi Thị bưng bát cháo cám lên mắt tối sầm lại thì mẹ già ấy vẫn đon đả tươi cười: Cám đấy mày ạ! Hì. Đúng là một người mẹ đã thắp sáng niềm tin cho các con vượt qua đói khổ, đó cũng chính là tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Kim Lân là niềm tin là sự lạc quan yêu đời của người nông dân nói chung.
Nhà văn Kim Lân đã đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh khốn cùng của các nhân vật, trái tim nhà văn đã thực sự đập cùng nhịp đập với trái tim người mẹ già, nghèo để nói lên những nỗi niềm, thể hiện lẽ sống vì tình thương của mình.
– Bài làm 3
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người – hậu quả đường lối đô hộ của thực dân Pháp mấy mươi năm và hậu quả chính sách tàn bạo “thu thóc, nhổ lúa, trồng đay” của phát xít Nhật.
Cũng như một số tác phẩm khác viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận lương thiện và cùng khổ. Ông không dành nhiều trang viết để mô tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ mà lại chủ tâm thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xơ xác vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy của họ vẫn nhen nhóm niềm tin ở cuộc sống, vẫn ánh lên những tia hi vọng vào một sự đổi đời, một tương lai tốt đẹp.
Trong ba nhân vật của truyện, bà cụ Tứ, mẹ anh Tràng gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc. Tấm lòng nhân hậu của bà thật đáng trân trọng và đáng quý làm sao.
Lúc đầu, thấy người đàn bà xa lạ ngồi ở đầu giường con mình, bà ngạc nhiên lắm. Được chào bằng “u”, bà lại càng không hiểu gì. Bà cố nhìn cho kĩ mà vẫn không nhận ra chị ta là ai. Bà phân vân, đoán định… Mãi đến lúc Tràng bảo: “Kìa, nhà tôi nó chào U.” thì bà mới vỡ lẽ. “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình..”. Ra thế! Thằng con mình nó đã có vợ.
Bà tủi thân tủi phận làm cha mẹ mà không tròn bổn phận với con cái. Trăm sự cũng tại cái nghèo mà ra cả: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt…”.
Bà lo lắng thực sự: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Nhưng rồi ngẫm đến thân phận nghèo đói của mẹ con mình, bà lại tự an ủi: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được.. Nghĩ thế nên bà vui lòng chấp nhận nàng dâu mới. Bà cư xử với chị dịu dàng, âu yếm, gọi chị là “con”, xưng “u”, và bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu con trong nhà rồi…”.
Với bổn phận một người mẹ, bà ao ước có được “dăm ba mâm”, trước cúng tổ tiên, ông bà, sau trình làng, trình xóm. Nhưng ao ước ấy không thể thực hiện được vì bà nghèo quá. Bà rất biết trước biết sau, song “cái khó nó bó cái khôn”, bà đành chịu. Bà chỉ biết nói với các con những lời khuyên nhủ chân tình: “Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!”.
Con trai có được vợ, bà lão mừng lắm: “Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rờ hẳn lên. Bà lào xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa..”. Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất. Bà cũng vơi đi được một mối lo bấy lâu nay cứ canh cánh bên lòng. Trong bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có cháo loãng với muối nhưng “Bà toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”.
Ở người đàn bà già nua, nghèo khổ này chứa đựng những nét đạo lí cổ truyền. Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại, nhen nhóm niềm tin, niềm vui sống cho các con. Trong thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói ấy vẫn nung nấu cho một ý chí sống mãnh liệt.
Bà lão đãi nàng dâu món ăn đặc biệt mà bà gọi là “chè”, nấu bằng cám. Bà khen “ngon đáo để”, bà an ủi, động viên so sánh “xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Chao ôi là khổ! Phải đói đến mức nào thì mới ăn cám thấy ngon? Cuộc sống khắc nghiệt đày đọa con người, bắt họ phải sống cuộc sống của loài vật, song nó không thể dập tắt được phần người, rất người trong bà mẹ khốn khổ kia. Bà cố đổi buồn thành vui, “tươi cười, đon đả” cho bữa cơm đỡ phần thê thảm, còn tác giả và chúng ta thì khóc. Khóc vì thương, vì quý tấm chân tình của bà.
Cái tài của tác giả là cứ nhẹ nhàng như không mà luồn lách ngòi bút động đến nơi sâu thẳm của hồn người, bắt người ta phải cười, phải khóc, phải sống cùng với nhân vật của mình. Kim Lân đã diễn tả tài tình tâm lí của bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà hiểu biết, yêu thương con hết lòng và yêu thương cả những cảnh khổ đời oái oăm, tội nghiệp bằng một tấm lòng nhân ái sâu xa.
– Bài làm 3
Trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân, bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ở phần cuối truyện. Nhưng với hình ảnh nhân vật này, Kim Lân đã giúp cho tác phẩm của mình có một chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm, đồng thời “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945” cũng mang đến cho người đọc một cách nhìn mới mẻ về lòng khao khát sự sống và hạnh phúc của những người nông dân nghèo khổ.
Nếu diễn biến tâm trạng của Tràng và vợ Tràng được nhà văn miêu tả theo một đường thẳng thoáng lo âu buồn tủi rồi đi ngay đến niềm vui bất tận, thì bà cụ Tứ được Kim Lân miêu tả tâm trạng gấp khúc, đan xen nhiều tâm trạng từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Bà cụ Tứ được đặt trong hoàn cảnh là con trai mình đột ngột có vợ. Tình huống này khiến bà vừa vui vừa buồn, vừa lo lắng lại vừa hy vọng. Thứ nhất, bà cụ Tứ thể hiện tâm trạng ngạc nhiên, ngỡ ngàng bật ra hàng loạt các câu hỏi khi thấy người đàn bà lạ ở trong nhà mình: “người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào đứng ngay ở đầu giường con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?…”.
Thứ hai, đó là tâm trạng băn khoăn ngồi xuống giường khi nghe con trai bà xác nhận là người đàn bà ấy được anh nhặt về làm vợ thì bà hiểu ra cơ sự, bà xúc động đến lặng người. Bà lão cúi đầu nín lặng không nói được gì khi thấy con mình bất chấp cái đói để thực hiện ước mơ hạnh phúc khiến bà vừa xót thương cho số kiếp con trai mình bao nhiêu lại vừa ai oán tủi thân tủi phận mình bấy nhiêu, vì bà là mẹ mà không lo nổi hạnh phúc cho con mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Đọc những dòng này ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại cả đời con lẽ ra “làm được dăm ba mâm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá” nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ không thực hiện được. Đồng thời như một điều ngẫu nhiên, bao nỗi niềm lo lắng cho con “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không?”. Nhưng trước khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc của con lòng bà trào dâng bao tâm trạng đồng cảm, trước hết là đồng cảm với người vợ nhặt để trả cho thị giá trị làm người “người ta có gặp lúc khó khăn đói khổ người ta mới lấy con mình”. Sau đó là sự đồng cảm với con trai “nhờ đói mà con mình mới có vợ được”, từ sự đồng cảm trái tim bà dâng trào tình yêu thương con trai, con dâu mãnh liệt “chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”.
Nhưng vượt lên trên tất cả là niềm vui niềm hạnh phúc tràn trề thể hiện qua câu nói đầy lòng vị tha nhân hậu “các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Trong khoảnh khắc sung sướng hạnh phúc vì con có đôi có lứa người mẹ không chỉ nghĩ đến hiện tại mà còn hướng các con đến tương lai phía trước – một tương lai không phải cho bà mà là cho con cháu, bà truyền cho con cái niềm lạc quan hy vọng “không ai khó ba đời” rồi đến hành động “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, những dự định nào là ngăn buồng cho đôi trẻ, nào mua đôi gà…Ta phát hiện ra rằng chính bà lại là người nói đến tương lai nhiều hơn cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lý lạc quan khỏe khoắn của người lao động mà đó là niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con cái của người mẹ nghèo. Chính niềm tin và sức sống của bà đã tiếp thêm sức mạnh để người mẹ lo được một bữa cơm ngày đói đón nàng dâu mới mặc dù nó rất thảm hại: chỉ có một bát rau chuối thái rối, một dúm muối ăn với nồi cháo cám. Nhưng hơn cả là tấm chân tình của người mẹ, chân tình ấy đã khiến bữa cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng vui vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con và bảo: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”.
Dường như bà cố ý xua đi không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh để động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa. Nhưng niềm vui của bà biết bao giờ mới thành sự thật khi vẫn còn đó nồi cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập, “bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”, còn người đọc thì cảm nhận rõ những giọt nước mắt trong lòng bà.
Qua hình tượng bà cụ Tứ với biết bao tâm trạng đan xen trong tình huống “nhặt vợ” của con trai, Kim Lân đã khẳng định tình cảm thiết tha với những tấm lòng người mẹ, điều này khiến hình ảnh bà cụ Tứ trở nên chân thật và cảm động hơn bao giờ hết. Phải chăng chính người mẹ già ấy lại là ánh sáng xua tan đi cái bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ.
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
- vẻ đẹp tâm hồn bà cụ tứ