25/05/2017, 01:00

Cảm nhận về đoạn trích Sau phút chia li trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn – Văn mẫu lớp 7

Đánh giá bài viết Cảm nhận về đoạn trích Sau phút chia li trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh Trong xã hội phong kiến người phụ nữ phải chịu rất nhiều bất hạnh, khổ cực. Người phụ nữ lúc bấy giờ chưa được xã hội công nhận, họ ...

Đánh giá bài viết Cảm nhận về đoạn trích Sau phút chia li trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh Trong xã hội phong kiến người phụ nữ phải chịu rất nhiều bất hạnh, khổ cực. Người phụ nữ lúc bấy giờ chưa được xã hội công nhận, họ không có quyền quyết định cuộc đời mình, phải phụ thuộc vào người chồng, người cha. Có rất nhiều tác phẩm ...

Cảm nhận về đoạn trích Sau phút chia li trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh

Trong xã hội phong kiến người phụ nữ phải chịu rất nhiều bất hạnh, khổ cực. Người phụ nữ lúc bấy giờ chưa được xã hội công nhận, họ không có quyền quyết định cuộc đời mình, phải phụ thuộc vào người chồng, người cha. Có rất nhiều tác phẩm nói về số phận người phụ nữ trong giai đoạn nay, trong đó phải kể đến đoạn trích Sau phút chia ly trích trong tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn.

Đoạn trích bày tỏ nỗi lòng sầu thương, nhớ nhung với sự mong mỏi, da diết của người vợ có chồng ra trận. Bài thơ với thể thơ cổ song thất lục bát. Toàn bài là nỗi nhớ thương ngày một tăng tiến, nâng cao của đôi vợ chồng trẻ, đặc biệt là người vợ – một phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Văn bản “Sau phút chia li” là đoạn trích sau khi người vợ ngậm ngùi tiễn chồng ra miền biên ải, nàng trở về đơn chiếc xót xa. 

 “Chàng thì đi cõi xa mưa gió 

 Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn 

Đoái trông theo đã cách ngăn 

Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh”. 

Rồi lại: 

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy 

 Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu 

Ngàn dâu xanh ngắt một màu 

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”. 

Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối giữa các câu thất và sử dụng điệp từ ngữ với những tính từ miêu tả độc đáo, đặc sắc đã toát lên nội dung chính là lên án chiến tranh, đặc biệt là khát vọng hòa bình, được yêu thương của người phụ nữ thời phong kiến. 

“Chàng thì đi cõi xa mưa gió 

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn”. 

Vì điều kiện đất nước xảy ra chiến tranh người chồng đã phải chia tay người vợ trẻ yêu quý của mình để ra chiến trường. Đó là cuộc chia li buồn và cô đơn của cả hai người. Trong “cõi xa mưa gió” của chàng ẩn chứa bao hiểm nguy, gian nan của hòn tên mũi đạn, của đời sống chốn sa trường. Trong nỗi lòng “buồn cũ chiếu chăn” của thiếp lại đau đớn bao đơn côi phiền muộn, bao khắc khoải đợi chờ. Hai cặp đối “Chàng thì” – “Thiếp thì” ẩn chứa bao chán nản, buồn phiền. Nghĩ đến nhau, họ chỉ còn biết: 

“Đoái trông theo đã cách ngăn 

Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh”.  

Khi đã tiễn chồng ra trận, người vợ quay trở về chỉ biết chôn chặt nỗi buồn trong loàng. “Đoái” nghĩa là ngoảnh lại, ngoái lại nhưng dùng từ “đoái” còn hàm ẩn được cái đau đớn, mệt mỏi của tâm trạng người vợ. Nhưng càng đoái theo trông ngóng chỉ càng thấy cách xa nghìn trùng, giữa họ “đã cách ngăn” “mây biếc” “núi xanh” “tuôn màu” “trải ngàn” cách trở. Nỗi buồn của người phụ nữ như đã âm thầm lan thấm vào thiên nhiên cảnh vật. Đoàn Thị Điểm đã dùng cảnh vật thiên nhiên để nói lên tâm trạng người phụ nữ khi xa chồng: 

 “Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại 

 Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang 

 Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương 

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng 

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy 

 Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu 

Ngàn dâu xanh ngắt một màu”. 

Trong đoạn thơ tiếp, nỗi sầu chia li và lưu luyến chẳng muốn rời của đôi vợ chồng trẻ đã được thể hiện bằng những điển tích cổ, thủ pháp đối, phép điệp ngữ rất độc đáo. 

Những địa danh Tiêu Tương, Hàm Dương tác giả mượn trong điển tích Trung Quốc gợi đến sự cách xa, chia lìa: “cách… mấy trùng”. Phép đối vừa thể hiện tấm lòng sâu nặng dành cho nhau của đôi vợ chồng người chinh phụ vừa như thể hiện sự rời xa nhau từng giờ từng khắc của họ: “Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại” – “Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang”, “Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương” – “Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương”. Đặc biệt, phép điệp ngữ khiến những câu chữ như muốn đan quyện vào nhau chẳng muốn rời: Tiêu Tương – Tiêu Tương, Hàm Dương – Hàm Dương, thấy – thấy, xanh xanh – xanh, ngàn dâu – ngàn dâu. Nét đặc sắc đó đã thể hiện thành công tấm lòng lưu luyến chẳng muốn rời xa nhau của hai vợ chồng nàng. Thể thơ song thất lục bát thiết tha đã góp phần thể hiện tâm trạng u sầu nhung nhớ khôn nguôi trong lòng người chinh phụ. Nhưng dầu thế, đất trời như đang đẩy họ xa nhau hơn. Trong hai câu thơ: 

 “Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu 

Ngàn dâu xanh ngắt một màu” 

Tác giả đã mượn ý câu thành ngữ “Thương hải tang điền” – biển rộng đã biến thành ruộng dâu tít tắp, ý chỉ những dâu bể cuộc đời. Chẳng những vậy, những sắc thái khác nhau của màu xanh được sử dụng trong hai câu thơ này cũng góp phần diễn tả sâu sắc nỗi lòng người chinh phụ. “Xanh xanh” là màu xanh nhẹ, xanh nhạt. “Xanh ngắt” lại là màu xanh đậm. Từ “xanh xanh” đến “xanh ngắt” là sự tăng tiến, màu xanh thể hiện sự chia li, li biệt; sự tăng tiến đó như thể hiện nỗi buồn ngày càng đậm nét, ngày càng quằn quại xót xa. 

Đoạn trích đã sử dụng thể thơ song thất lục bát ngắn ngủi cùng khá nhiều những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng thành công, tác giả đã thể hiện sâu sắc nỗi lòng của người vợ “sau phút chia li” tiễn chồng đi chinh chiến. Đó là nỗi buồn tê tái, nỗi nhung nhớ vơi đầy, sự lưu luyến khôn nguôi… Và như thế, văn bản “Sau phút chia li” (trích “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm) đã thể hiện tinh thần nhân đạo rất nhân bản, nhân văn.

Người phụ nữ trong xã hội cũ phải chịu quá nhiều đắng cay tủi nhục, chỉ có người chồng là chỗ dựa tinh thần rồi cũng phải ra đi, chưa biết khi nào mới gặp lại. Sự ác liệt của chiến tranh làm cho nỗi nhớ chồng của người phụ nữ càng nhân lên gấp bội, bởi giữa cái sông và cái chết của con người trong hoàn cảnh đó là quá mong manh.

Cảm nhận về đoạn trích Sau phút chia li trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn – Bài làm 2

Trong văn chương từ khúc Việt Nam, Chinh phụ ngâm khúc nổi lên như một viên kim cương óng ánh sắc màu. Cả bản nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản diễn nôm của Đoàn Thị Điểm đều là những kiệt tác nghệ thuật bất hủ.

Chinh phụ ngâm khúc ra đời vào đầu thế kỉ XVIII, cái thời mà chiến tranh loạn lạc kéo dài dẫn đến bao cảnh chia li bi thương sâu thiết:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiều Dương thiếp hãy trông sang

Khói Tiên Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu  xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

(Sau phút chia li – Trích Chinh phụ ngâm khúc)

Mười hai câu song thất lục bát với giọng điệu lâm li, vừa bùi ngùi xót xa cho chính mình, vừa vời vợi nỗi sầu nhớ thương, đọc xong rồi cứ ám ảnh mãi. Người chinh phu và người chinh phụ còn trẻ tuổi, đang trong tình vợ chồng gắn bó yêu thương bỗng vì đâu mà ra nông nỗi:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.

Chàng thì đi- Thiếp thì về, hai hình ảnh tương phản nhau như hình sự ngăn cách nghiệt ngã. Dường như người vợ cũng cảm nhận thấm thía điều đó. Và nỗi sầu đã nhuốm cả không gian:

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh

Ngàn núi xanh đã chia cách họ mà tâm lòng nhớ thương vẫn cứ đau đáu dõi về nhau:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Từ Chốn Hàm Dương- Bến Tiêu Tương đến khói Tiêu Tương- Cây Hàm Dương thì sự xa cách đã lên đến mấy trùng, cũng như nỗi sầu đã dâng lên trùng trùng lớp lớp trong lòng người chinh phụ:

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

Càng dõi trông theo chồng, ước mong gặp mặt càng trở nên vô vọng. Còn đâu bóng dáng cua người chồng thân yêu? Chỉ còn những ngàn dâu xanh xanh trải dài tít tắp đến tận chân trời như nỗi bi thương vô vọng không biết đến tận bao giờ:

Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

 Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Câu nghi vấn như một nốt nhấn làm hằn sâu nỗi sầu chất chứa trong lòng người chinh phụ một khối sầu càng lắc càng đầy. Cả một khối sầu nặng trĩu trong lòng người vợ trẻ tội nghiệp và đè nặng tâm can người đọc. Trong câu thơ dường như có cả tiếng nấc nghẹn ngào uất ức của người vợ. Vì đâu mà dẫn đến nỗi sầu nghịch chướng, oái oăm này? Vì đâu mà người chinh phụ phải đi vào cõi xa mưa gió, còn người chinh phụ trở về buồng cũ chiếu chăn vò võ một mình? Chiến tranh thật là tàn nhẫn.

Nhà thơ không chỉ nhận thấy, mà còn nghe thấy cả tiếng lòng sâu thẳm của người vợ trẻ và thể hiện nó một cách chân thực qua những sáng tạo nghệ thuật tài hoa và điêu luyện. Chưa bao giờ có trong văn học Việt Nam, nỗi sầu chia li và tiếng lòng của người phụ nữ lại được thể hiện một cách sâu đậm đến thế.

Mười hai câu song thất lục bát trở thành tiếng nói chung cho cảnh biệt li của tất cả những cặp vợ chồng (Hoàng Xuân Hãn) và in dấu ấn trong tiềm thức của tất cả những ai yêu văn chương cổ điển Việt Nam.

Cảm nhận về đoạn trích Sau phút chia li trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn – Bài làm 3

Tác phẩm chinh phụ ngâm khúc trong nguyên văn chưa Hán là của Đặng Trần Côn nhưng tác giả được biết đến nhiều nhất lại là Đoàn Thị Điểm do bà có công diễn nó sang thể chữ Nôm. Đoạn trích sau phút chia lí nói về tâm trạng của người vợ cách xa vời vợi sau phút chia li. Trước hoàn cảnh phải lên đường ra chiến trận thì tác giả đã viết lên bài thơ để bày tỏ sự xót thương của mình đối vớ người phụ nữ.

Bốn câu thơ đầu thể hiện tâm trạng lạnh lẽo chơi vơi của người vợ trẻ.

Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Đoạn thơ đầu tiên gợi cho chúng ta thật nhiều suy nghĩ. Đoạn thơ không những thể hiện cho chúng ta thấy rằng người chồng đã đi ra chiến trận đồng thời cũng thể hiện một hình ảnh một người phụ nữ đang bò bõ một mình chờ đợi người chồng quay trở về. Nơi đây người vợ cô đơn một mình không biết nương tựa vào ai mỗi khi khó khăn vất vả chỉ biết và võ một mình đợi người chồng quay trở về. Vẫn căn phòng ấy vẫn chiếc chăn mà đôi ta vẫn hay đắp chung vậy mà sao giờ đây chỉ có một mình thiếp càn chàng đã khuất xa nơi nào. Đoạn thơ cũng cho ta câu trả lời rằng chàng đã đi cõi mưa xa mưa gió. Nơi rừng sâu thăm thẳm có lẽ chàng vẫn chưa ngủ vẫn đang phải hành quân hay là đang thi hành nhiệm vụ. Câu thơ cuối đoạn như kéo dài vang lên âm hưởng của sự chia cách ngàn trùng ,câu thơ càng nhấn mạnh khoảng cách xa vời vợi của hai vợ chồng.

Nỗi sầu sinh li tràn ngập cõi lòng người ở lại và dường như thấm cả sang đất trời, cây cỏ. Bóng dáng người đi đã nhạt nhòa, khuất lấp. Cố dõi mắt đoái trông thì cũng chỉ thấy mây biếc, núi xanh trải dài vô tận như nỗi buồn không thể nguôi ngoai. Cách ngăn đã là sự thật khắc nghiệt và nỗi sầu chia li tưởng như đã phủ lên màu biếc của mây, màu xanh của núi. Hình ảnh mây biếc, núi xanh trập trùng có tính ước lệ thường thấy trong thơ cổ đã được cảm xúc chân thành của người trong cuộc làm cho sống động, tự nhiên.

Bốn câu thơ tiếp theo tiếp tục miêu tả nỗi nhớ nhung, sầu muộn ở mức độ cao hơn. Đó là nỗi nhớ dằng dặc nối hai đầu xa cách:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Những địa danh Tiêu Tương, Hàm Dương tác giả mượn trong điển tích Trung Quốc gợi đến sự cách xa, chia lìa: “cách… mấy trùng”. Phép đối vừa thể hiện tấm lòng sâu nặng dành cho nhau của đôi vợ chồng người chinh phụ vừa như thể hiện sự rời xa nhau từng giờ từng khắc của họ: “Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại” – “Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang”, “Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương” – “Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương”. Đặc biệt, phép điệp ngữ khiến những câu chữ như muốn đan quyện vào nhau chẳng muốn rời: Tiêu Tương – Tiêu Tương, Hàm Dương – Hàm Dương, thấy – thấy, xanh xanh – xanh, ngàn dâu – ngàn dâu.

Đến khổ thơ này thơ này thì sự cách trở xa thẳm càng tăng lên rất nhiều lần. Đoạn thơ đã diễn tả cảnh cách xa mấy trùng thể hiện sự xa cách nhạt hòa không thể nhìn thấy nhau không thể nhận ra nhau khi cách xa mấy trùng khi mây khói ngăn cách khiến đôi vợ chồng không thể nhìn thấy nhau sự chia li đã diễn ra trong khi tình cảm, tâm hồn vẫn gắn bó khăng khít. Nhà thơ không chỉ nói đến nỗi sầu chia li mà còn nói đến sự đời oái oăm, nghịch chướng: đôi vợ chồng trẻ muốn gắn bó mà không dược gắn bó, không muốn chia li mà lại phải chia li.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Tác giả đã mượn ý câu thành ngữ “Thương hải tang điền” – biển rộng đã biến thành ruộng dâu tít tắp, ý chỉ những dâu bể cuộc đời. Chẳng những vậy, những sắc thái khác nhau của màu xanh được sử dụng trong hai câu thơ này cũng góp phần diễn tả sâu sắc nỗi lòng người chinh phụ. “Xanh xanh” là màu xanh nhẹ, xanh nhạt. “Xanh ngắt” lại là màu xanh đậm. Từ “xanh xanh” đến “xanh ngắt” là sự tăng tiến, màu xanh thể hiện sự chia li, li biệt; sự tăng tiến đó như thể hiện nỗi buồn ngày càng đậm nét, ngày càng quằn quại xót xa. Vẫn như những động thai ban đầu một người ở lại dõi theo còn một người đã đi khuất Bóng người đi đã mất hút vào ngàn dâu xanh ngắt. Trớ trêu thay, cái màu xanh vốn tượng trưng cho sức sống và hi vọng trong tình cảnh này chỉ gợi nên một không gian thăm thẳm mênh mông, thấm đẫm môi sầu li biệt. Câu thơ cuối cùng: Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ? không có ý so sánh mà chỉ nhấn mạnh nỗi sầu thương tột độ trong lòng chinh phụ. Đành gửi vào gió, vào mây nỗi nhớ niềm thương khó giãi bày cho hết cửa mình.

Qua đoạn trích trên đây, chúng ta có thể thấy được phần nào nỗi sầu chia li của người chinh phụ lúc tiễn chồng ra trận và tấm lòng đầy thủy chung của người vợ đối vơi người chồng luôn chờ đợi để đến ngày người chồng quay trở về.

Từ khóa tìm kiếm

  • thuyết minh về tác phẩm chinh phụ ngâm

Bài viết liên quan

0