Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh – Văn mẫu lớp 8
Đánh giá bài viết Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh – Bài làm của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh – một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. ...
Đánh giá bài viết Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh – Bài làm của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh – một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng ...
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh – Bài làm của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình
Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh – một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng sâu lắng.
Ta có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất biển, hay một dòng sông đầy nắng trong những buổi trưa gắn với tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần cù.
Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phối hợp cả hai kiểu gieo vần liên tiếp và vần ôm đã phần nào thể hiện được nhịp sống hối hả của một làng chài ven biển:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương.
Còn quê hương trong tâm tưởng của Tế Hanh là một làng chài nằm trên cù lao giữa sông và biển, một làng chài sóng nước bao vây. một khung cảnh làng quê như đang mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: “Trời trong – gió nhẹ – sớm mai hồng”, không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn và ánh sáng tràn ngập.
Bầu trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến là một báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi vọng, một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Nếu như ở trên là miêu tả vào cảnh vật thì ở đây là đặc tả vào bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Con thuyền được so sánh như con tuấn mã làm cho câu thơ có cảm giác như mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm vui và phấn khởi của những người dân chài. Bên cạnh đó, những động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Từ hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến “hồn người”, phải là một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng xómTế Hanh mới có thể viết được như vậy.Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay trở nên lớn lao và thiên nhiên.Cánh buồm trắng thâu gió vượt biển khơi như hồn người đang hướng tới tương lai tốt đẹp.Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng linh hồn của quê hương đang nằm trong cánh buồm. Hình ảnh trong thơ trên vừa thơ mộng vừa hoành tráng, nó vừa vẽ nên chính xác hình thể vừa gợi được linh hồn của sự vật.
Ta có thể nhận ra rằng phép so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao. Đó chính là sự tinh tế của nhà thơ. Cũng có thể hiểu thêm qua câu thơ này là bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hy vọng mưu sinh của người dân chài đã được gửi gắm vào cánh buồm đầy gió. Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ tạo cho ta ấn tượng của một không gian mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa sóng nước mênh mông, hình ảnh con người trên chiếc tàu nhỏ bé không nhû nhoi đơn độc mà ngược lại thể hiện sự chủ động, làm chủ thiên nhiên của chính mình.
Cả đoạn thơ là khung cảnh quê hương và dân chài bơi thuyền ra đánh cá, thể hiện được một nhịp sống hối hả của những con người năng động, là sự phấn khởi, là niềm hi vọng, lạc quan trong ánh mắt từng ngư dân mong đợi một ngày mai làm việc với bao kết quả tốt đẹp:
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Những tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi động của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt cá như thế nào nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong đợi.
Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với lối tả thực, hình ảnh “làn da ngắm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả. Hai câu thơ miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo.
Nhà thơ không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó. Cũng như dân chài, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe chất muối của đại dương đang thấm trong từng thớ vỏ của nó. Thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân. Không phải người con làng chài thì không thể viết hay như thế, tinh như thế, và cũng chỉ viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hoà vào cảnh vật cả hồn mình để lắng nghe. Ở đó là âm thanh của gió rít nhẹ trong ngày mới, là tiếng sóng vỗ triều lên, là tiếng ồn ào của chợ cá và là những âm thanh lắng đọng trong từng thớ gỗ con thuyền.
Có lẽ, chất mặn mòi kia cũng đã thấm sâu vào da thịt nhà thơ, vào tâm hồn nhà thơ để trở thành nỗi niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu. Nét tinh tế, tài hoa của Tế Hanh là ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”… Thơ Tế Hanh là thế giới thật gần gũi, thường ta chỉ thấy một cách lờ mờ, cái thế giới tình cảm ta đã âm thầm trao cảnh vật: sự mỏi mệt, say sưa của con thuyền lúc trở về bến…”
Nói lên tiếng nói từ tận đáy lòng mình là lúc nhà thơ bày tỏ tình cảm của một người con xa quê hướng về quê hương, về đất nước :
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Nếu không có mấy câu thơ này, có lẽ ta không biết nhà thơ đang xa quê. ta thấy được một khung cảnh vô cùng sống động trước mắt chúng ta, vậy mà nó lại được viết ra từ tâm tưởng một cậu học trò. từ đó ta có thể nhận ra rằng quê hương luôn nằm trong tiềm thức nhà thơ, quê hương luôn hiện hình trong từng suy nghĩ, từng dòng cảm xúc. Nối nhớ quê hương thiết tha bật ra thành những lời nói vô cùng giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”. Quê hương là mùi biển mặn nồng, quê hương là con nước xanh, là màu cá bạc, là cánh buồm vôi.
Màu của quê hương là những màu tươi sáng nhất, gần gũi nhất. Tế Hanh yêu nhất những hương vị đặc trưng quê hương đầy sức quyến rũ và ngọt ngào. Chất thơ của Tế Hanh bình dị như con người ông, bình dị như những người dân quê ông, khoẻ khoắn và sâu lắng. Từ đó toát lên bức tranh thiên nhiên tươi sáng, thơ mộng và hùng tráng từ đời sống lao động hàng ngày của người dân.
Bài thơ đem lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày sông, lung linh sóng nước , óng ả nắng vàng. Dòng sông, hồn biển ấy đã là nguồn cảm hứng theo mãi Tế Hanh từ thuở “hoa niên” đến những ngày tập kết trên đất Bắc. Vẫn còn đó tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, nồng ấm của một người con xa quê:
Tôi dang tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm hôm chài lưới ven sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bến sông
(Nhớ con sông quê hương – 1956)
Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”.“Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhơ,ù trong tâm tưởng người con đấùt Quảng Ngãi thân yêu – Tế Hanh – đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”.
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh – Bài làm 2
Quê hương là nguồn cảm xúc rất thiêng liêng trong tâm hồn mỗi người . Bởi vậy trong số những bài thơ hay có sức sống lâu bền , không ít bài thơ viết về quê hương . Trong bài thơ “Tràng Giang”, Huy Cận viết :
Lòng quê dợn dợn vời con nước.
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tình quê trong “Quê Hương” của Giang Nam cũng chan chứa dòng cảm xúc :
Thưở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ.
Còn đối với Đỗ Trung Quân :
Quê hương mỗi người chỉ một.
Như là chỉ một mẹ thôi.
Nói chung nhà thơ nào mà chẳng có một miền quê. Vì vậy những bài thơ nói về cái núm ruột sinh tồn ấy, với họ không có gì khó hiểu. Nhưng nếu gọi đó là những nhà thơ của quê hương – ở cấp độ đề tài và cảm hứng một đời thì chưa phải. Trong bối cảnh ấy, ta mới biết quý một Tế Hanh bình dị chân thành, những phẩm chất của quê hương, mảnh đất đã tạo nên ở nhà thơ một sức sống dai bền, một tấm lòng chung thuỷ. Gương mặt nhà thơ, nghĩa là cốt cách thơ, giọng điệu thơ từ đó mà hình thành, rồi cũng từ đó mà được nâng cao, để tươi tốt một cây thơ nặng tình với đất. Quê hương, bởi vậy, tuy đã xuất hiện từ khi tác giả còn rất trẻ, mới bước vào làng thơ, nó vẫn là một chấm son giữa cánh đồng thơ mới. Cái mới ở đây không phải trong khu vực đề tài mà ở thể thơ, ở cấu trúc bài thơ, nhất là ở hồn thơ. Thể thơ tám chữ là mới (tuy đã xuất hiện trong thể loại hát nói – nhưng nằm trong hệ thi pháp trung đại), cấu trúc bài thơ có một cách phân đoạn không đều, không theo bố cục: đề, thực, luận, kết của thơ Đường. Tất cả (hai yếu tố trên) do hồn thơ, do cảm hứng của "cái tôi" trữ tình xô đẩy như những con sóng biển khi dìu dặt, lúc tràn bờ. Cảm hứng ấy diễn đạt bằng những hình ảnh ngôn từ đầy sáng tạo.
Bài thơ mở ra bằng hai câu khái quát nhưng nội dung của nó không chỉ có ý nghĩa thuyết minh hạn hẹp :
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới :
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.
Nếu xét theo ý nghĩa thông tin đơn giản thì ta hiểu đó là một làng ven biển, như một thứ cù lao, dân ở đấy làm nghề đánh cá. Nhưng cái tình của Tế Hanh, cái hồn biển của Tế Hanh đã gửi vào câu chữ để cái làng ấy hiện ra duyên dáng, nên thơ, phảng phất một cơn gió biển làm sóng nước bồng bềnh. Làng ở vào thế trung tâm, nước là đường viền, nước màu lạnh làm nền, còn đất (làng) như một điểm ấm sáng hiện ra như một niềm thương nhớ chơi vơi. Thêm nữa, làng không chỉ có "nước bao vây" mà khoảng cách biển cũng được đo bằng nước (nửa ngày sông). Thời gian được đo bằng không gian, một không gian nước vừa quấn quyện vừa mênh mông thơ mộng. Làng vốn là làng mà làng cũng như con thuyền bốn mùa dập dờn trong sóng nước êm ru. Nhà thơ đã cá biệt hoá cái làng chài lưới của mình bằng những cảm nhận rất riêng ấy. Nó vừa tả thực vừa hiện lên như một giấc chiêm bao.
Rồi sáu câu miêu tả cảnh "trai tráng bơi thuyền đi đánh cá" cũng được miêu tả bằng sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn ấy :
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Đúng là một câu thơ có hoạ, có nhạc. Đẹp vô ngần với màu sắc của bức tranh vùng trời vùng biển giữa một sớm mai hồng với gió nhẹ, trời trong như có sức thanh lọc và nâng bổng tâm hồn. Cũng đẹp vô ngần là nhạc điệu, tiết tấu. Bằng nhịp ngắt 3/2/2, câu thơ như mặt biển dập dềnh, con thuyền rà khơi nhịp nhàng với những con sóng chao lên lượn xuống, như một sự nâng dỡ, vỗ về. Không dùng kích thước để đếm đo, thay vào đó một tấm lòng đưa tiễn, dịu ngọt thân thương, trìu mến. Tuy nhiên, hình ảnh trung tâm của đoạn thơ vẫn là hình ảnh con thuyền. Con thuyền ấy chắc ở đâu cũng thế, nó chì bình thường thôi, nhưng riêng với nhà thơ, nó rất lạ: trẻ trung như những trai làng trên con thuyền ấy, con thuyền mang khuôn mật họ, sức sống niềm vui của họ. Sự hồ hởi trong phút lên đường của con thuyền trên mặt biển được so sánh với con tuấn mã vượt đường xa là một liên tưởng bất ngờ, độc đáo. Con thuyền do đó có một vẻ đẹp riêng, một sức sống riêng. Nó cũng có hồn, cũng thật đẹp, thật đáng yêu, cũng bầu bạn thân thiết với con người. Dân trai tráng trên con thuyền ấy vốn cũng bình thường đã trở thành những tao nhân, tráng sĩ. Cánh buồm trên con thuyền ấy, trong một phút xuất thần dã dược đặc tả, được linh diệu hoá rất hay :
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Cánh buồm ấy thực ra cũng không có gì đặc biệt, nó chỉ là "chiếc buồm vôi", nhưng ở đây nó đã được hoá thân nhầm kết tinh cho một thứ đời sống bên trong của làng chài lưới. Thiêng liêng sâu nặng biết bao, nó như những mảnh hồn làng, nghĩa là một thứ hồn vía quê hương thân thuộc đến bâng khuâng. Nói đến cánh buồm no gió, cánh buồm căng là do có gió thổi vào, nghĩa là tư thế phụ thuộc, bị động. Nhưng tình hình ở đây có sự đảo ngược, buồm và gió được trao đổi vị trí cho nhau. Các động từ tình thái là trong hệ thống ấy. "Rướn thân trắng" là chủ động, một sự chủ động hào hùng thể hiện khả năng sức mạnh, "thâu góp gió" cũng là chủ động nhưng mơ mộng đầy chất lãng tử, thi nhân. Cả hai câu thơ cứ lung linh vừa thực vừa như không thực này tạo ấn tượng về cái đẹp rất khó giải thích rạch ròi, âu đó cũng là phẩm chất của những câu thơ hay, dấu hiệu của những tài nâng mà mấy ai có được ? Nhưng, xét cho cùng những sáng tạo hình ảnh của Tế Hanh, tất nhiên phải do yếu tố tài năng, nhưng đằng sau cái tài năng đột xuất ở đây còn có cái tình. Chính vì cái tình với quê hương phải dạt dào đến mức nào, chẳng hạn như sóng gió một vùng biển làng quê mới có thể làm cho con thuyền, chiếc buồm cất cánh.
Như thế là chất muối mặn của biển khơi đã thấm dần từ khung cảnh một làng chài lưới, "cách biển nửa ngày sông" đến ngọn gió, con thuyền, cánh buồm,… một không gian mặn mòi thân thuộc. Không tả muối mặn nhưng hương vị đặc trưng ấy cứ đang lan toả, đang pháng phất đâu đây để không lẫn với một vùng quê khác. Đó là "cái đạm" như có người nói, nhưng là "cái đạm sau khi đã nồng".
Thế là con thuyền nhẹ nhõm chỗ trời trong gió nhẹ ra đi với cánh buồm hi vọng, vẫn là con thuyền ấy, ngày hôm sau đầy nặng cá trớ về, giấc mơ đã trở thành hiện thực. Hiện thực trong cái ỒI1 ào tấp nập của dân làng ra đón ghe, đón cá. Là hiện thực rồi mà nó vẫn như mơ : "Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe". Đặt những câu thơ vào bối cảnh nhọc nhằn đầy hiểm nguy của việc ra khơi những năm trước Cách mạng, khi trình độ và phương tiện còn thấp kém, thô sơ (chưa có thông tin, chưa có tàu thuyền đánh bắt cá xa bờ,…) còn phụ thuộc rất nhiều vào may rủi, mới thấy lời cầu nguyện trong thơ không phải là vô nghĩa. Vì vậy, con thuyền trở về là niềm vui dầy ắp trong khoang. Những con cá bằng mồ hôi nước mắt – đôi khi phải đánh đổi bàng cả tính mạng con người – được nhìn bằng ánh mắt thân thương trìu mến : "Những con cá tươi ngon thân bạc trắng". Nhưng, cảnh con thuyền về bến đọng lại nhiều cảm nghĩ nhất là bốn câu tiếp theo tả chính con thuyền và "Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá" :
Dân chài lưới làn da ngâm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm ;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Chắc khoẻ như những bức tượng đồng nâu, ấy là màu da của người vật lộn với nắng, gió khơi xa dội trời lướt biển, ăn sóng nói gió vốn từng quen. Đó là hình thức, dấu hiệu bên ngoài. Câu thơ toàn vẹn, nguyên khối và nổi bật hơn, ấn tượng hơn là câu "Cả thân hình nồng thở vị xa xăm". Chất thực và chất thơ đã tạo nên một thân hình cường tráng, săn chắc đã được thử thách tôi luyện bằng sóng lớn gió to, bằng bao nhiêu bất trắc. Trước biển rộng, những con người được nghệ thuật tạo hình bằng ngôn ngữ dựng lên kì vĩ, lớn lao, ngang tầm với trời cao, biển rộng. Song, sự bất động – khi liên tưởng đến bức phù điêu – trở nên sinh động vì hơi thở ấm áp, "nồng thớ vị xa xầm" của con người. Hơi thở của những chàng trai dường như nồng nàn hơn sau mỗi lần đi biển. Đó là nồng độ, còn vị xa xăm là vị gì ? Đây là thứ hương vị đặc biệt không thể cảm nhận được bằng một giác quan cụ thể. Bởi nó chì thấp thoáng, không định hình và không thể gọi tên : vị của xa xôi, của biển cả. Xa xăm là một cảm giác không gian vốn không có mùi vị, đây đúng là một sáng tạo vô giá cứa nhà thơ, nó gợi được sự liên tưởng và những khát khao chiếm lĩnh những chân trời xa lạ mà những con thuyền ra khơi cùng những nhà thám hiểm mưu trí kiên cường.
Hình ảnh con thuyên cũng giống hình ảnh con người đã trở về sau những chuyến đi xa. Nó vừa là những con thuyền thực vừa là những con thuyền thơ. Thực là vì nó dã về bến đỗ dể được neo đậu, được bình yên không còn bị gió đập sóng xô. Nhưng chất thơ là ở chỗ: nó cũng như một con người. Biện pháp nhân hoá của nhà thơ đã phát huy hiệu quả tối đa khi kết hợp với thủ pháp đối lập. Con thuyền lúc ra khơi hăng hái, hào hứng không kém con người ("Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã – Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang"), nay nó lặng lẽ vì mỏi mệt, muốn nghỉ ngơi sau một chuyến đi vất vả gian truân. Nhưng im lặng không phải là vô tri, là vô tư lự. Ngược lại nó giống như bậc hiền triết: trong im lặng, nó vẫn khái quát nghĩ suy về sự được mất của con thuyền. Nó lại biết nghe cái mà không ai có thể nghe :
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Nếu những chàng trai "nồng thở vị xa xăm" thì con thuyền – bất ngờ thay, "nghe chất muối thấm dần" trên cơ thể. Cảm nhận về sự mặn mòi này là cảm giác có thật, ấy là niềm vui lặng lẽ của con thuyền được dày dạn hơn trong tôi luyện để cứng cáp hơn. Tục ngữ có câu "Ai ơi chân cứng đá mềm", phải chăng con thuyền dang nói với chính mình để chuẩn bị cho những cuộc ra khơi rồi sẽ còn tiếp nối.
Nhìn chung, cảnh ra khơi và cảnh trớ về dạ hoàn tất một chuyến đi xa, ấy là những chuyến đi thực thì rất dỗi nhọc nhằn, gian truân, vất vả. Nhưng vì là nghề kiếm sống, họ phải ra đi để họ và gia dinh họ có cái ăn, cái mặc hằng ngày. Công việc sinh nhai lương thiện và cao quý ấy rất đáng ngợi ca. Tình yêu quê hương của nhà thơ là tình yêu những con người như thế. Đó là sự đồng cảm, trân trọng, quý mến chân thành.
Tuy nhiên những kí hoạ của nhà thơ không phải là những bức tranh trực tiếp tức thời. Cảnh và người với nhà thơ, nó chỉ hiện lên trong kí ức, nghĩa là có một khoảng cách xa xôi, vì thế nó mới là một miền "tưởng nhớ":
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá !
Trong nỗi niềm "tưởng nhớ" ấy, dường như chỉ cần nhấm mắt lại là cảnh và người lại hiện ra rõ mồn một. Bởi nó đã nhập tâm, nhập vào kí ức của thi nhân thời bé dại ấu thơ. Nó sẽ còn là hành trang đi suốt cuộc đời. Cảnh và người ấy hiện ra bàng màu sắc và bằng đường nét y như thật, y như là đương diễn ra. Bởi màu nước xanh, bởi màu cá bạc, cả chiếc buồm vôi nữa chỉ ở quê biển nhà thơ nó mới như thế. Sau này, trước trời xanh Quảng Trị, nhà thơ vẫn một cái nhìn biến lạ thành quen : "Trời vẫn xanh một màu xanh Quáng Trị – Tận chân trời mây núi có chia đâu" (Nói chuyện với con sông Hiền Lương). Ây là chưa kể giọng thơ: kể mà như đếm, nói với người mà như nói với mình ("Màu nước xanh / cá bạc / chiếc buồm vôi") theo lối ngắt câu làm ba nhịp như nghẹn ngào một nỗi nhớ thương đau đáu. Từ "nghề chài lưới" đến "cái mùi nồng mặn", từ "cánh buồm giương to" đến "chiếc buồm vôi", cái ảo thu về cái thực, cái thực trong tâm tướng, nó tha thiết đến nao lòng. Bài thơ đã kết thúc, nhưng bức tranh về quê hương vùng biển, cảnh và người vùng biển, nhất là tình của nhà thơ với quê hương vẫn đầy dư vị, ngàn nga. Tinh cảm ấy như chất muối thấm đẫm trong những câu thơ, cả giọng thơ bồi hồi tuy ngôn ngữ thơ nói chung vô cùng bình dị.
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh – Bài làm 3
Nhà thơ Tế Hanh viết thơ này khi ông mới 18 tuổi, đang độ Hoa niên (tên một tập thơ của chính tác giả). Lúc này Tế Hanh đang theo học ở Huế. Lòng trai 18 tuổi xa nhà, nhớ nhà, nhớ quê, nhớ cái làng chài ven biên nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình, thế là các câu thơ tưởng nhở được thốt ra một cách tự nhiên, dung dị không cần phải có một cô gắng nào.
Thì câu thơ đầu tiên đấy thôi, cứ như là lời xưng danh, tự thuật rất đỗi tự nhiên và mộc mạc:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Đã bắt đầu bằng cách xưng danh này, nhà thơ phải kể, phải tường thuật ra cái làng chài của mình. Câu thơ có tính thông báo tiếp theo cho thấy đây là một làng chài ở vùng cửa sông gần biển. Bằng hai càu thơ, và như thế là vừa đủ, tác giả lướt nhanh nội dung thông báo kể trên để đi vào miêu tả cảnh dân làng bơi thuyền đánh cá. Một buổi sáng đi biển của người dân chài trời trong gió nhẹ, sớm mai hồng, phải nói là một buổi sáng đẹp trời lí tưởng – vẻ đẹp tinh khôi, mát mẻ, dễ chịu, thoáng đãng, bao la sắc hồng của bình minh… Câu thơ tưởng như liệt kê chẳng có gì mà dựng lên được cả một không gian ban mai trên biển. Chỉ những người làm nghề chài lưới mới thấy hết được tầm quan trọng thiết yếu của nhưxng buổi đẹp trời – không chỉ báo hiệu một chuyến ra khơi yên lành, mà còn hứa hẹn những mẻ lưới bội thu. Trong cái quang cảnh dễ làm lòng người phấn khích ấy, đoàn trai tráng bơi thuyền ra khơi, bắt đầu một ngày lao động của mình. Làm cái nghề đánh cá nặng nhọc này, phải là những người khỏe mạnh, vạm vỡ ăn sóng nói gió mới có thế đảm đương nổi. Chỉ có những trai tráng mới có thể điều khiển nổi chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã, mới phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang được. Có thể nói đây là một chuyến ra khơi đầy hào hứng. Những câu thơ miêu tả trực tiếp cảnh dân làng ra khơi đánh cá có ý nghĩa như những chi tiết tả thực giúp người đọc hình dung được không gian, đoàn thuyền khá sinh động. Trên nền kể tả ấy xuất hiện hai câu thơ mang vẻ đẹp thật bất ngờ:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió?
Cánh buồm là một vật cụ thể hữu tình, được ví với mảnh hồn làng là cái trừu tượng, vô hình – một cách ví von nhờ sự liên tưởng khá xa và độc đáo của mỗi tác giả. Mỗi một vùng quê sinh sống lâu đời dường như bao giờ cũng mang một hồn vía đó. Với chàng trai Tế Hanh 18 tuổi, hình ảnh chiếc buồm ra khơi hình như mang hơi thở, nhịp đập, hồn vía quê hương. Có một mảnh hồn làng neo đậu mãi trong tâm hồn thi sĩ. Hình ảnh cánh buồm Rướn thân trắng bao la thâu góp gió thật đẹp trong dáng vẻ cường tráng, sức vóc tung tỏa của nó. Hai câu thơ bỗng thoát khỏi sự kể tả cụ thể để diễn đạt một hình ảnh giàu ý nghĩa, đưa nó lên thành biểu tượng của tâm hồn. Chọn lấy thời điểm đoàn thuyền đánh cá trở về để miêu tả trong thơ là một khung cảnh sinh hoạt có ý nghĩa tiêu biểu nhất về cuộc sống của những cư dân làng chài ven biển. Một khung cảnh thật náo nức, thanh bình, mang dáng dấp vẻ ấm no xuất hiện: Ồn ào, tấp nập đón ghe về. Câu thơ Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe tựa như một lời cảm tạ trời đất đã chở che hào phóng đối với chuyến ra khơi đánh cá vừa rồi. Câu thơ rất thực nhưng mang trong lòng nó một ý nghĩa thiêng liêng. Mỗi lần đi biển là mỗi lần giáp mặt với thủy thần với tử thần với tử thần; có nghĩa là sự sống thật mong manh. Khi đó, ở bên bờ, những người mẹ, người vợ của đoàn trai tráng kia ngày đêm lo lắng, âm thầm khấn nguyện cho chồng con họ được an toàn trở về và thu hoạch cá được nhiều. Có hiểu được như thế mới thấy hết được niềm vui sướng của những người từ biển trở về và của những người ra đón họ. Câu thơ thật giản dị mà lại mang chiều sâu của một tâm lí cộng đồng, rất tiêu biểu cho đời sống tâm linh của một làng chài ven biển.
Trong khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về, hình ảnh những trai tráng sức vóc dạn dày sương gió, có làn da ngâm rám nắng kia được hiện lên qua những câu thơ thật đẹp. Cái nhìn của tác giả đã chộp được một khoảng khắc rất đắt chân dung những người dân chài lưới: Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Đó là những thể được tách ra từ biển, mang vị mặn mòi của biển, mang theo về cả những hương vị biển xa. Họ là những đứa con của biển khơi. Câu thơ thật lãng mạn, khoáng hoạt. Chân dung những người dân chài lưới hiện lên thật tầm vóc, có hình khối mà lại rất đặc trưng, chỉ người dân biển mới có được. Hai câu thơ tiếp theo dành để nói về những con thuyền neo đậu trên bến đỗ. Cụm từ im bến mỏi thật cô đúc, vừa nói được sự nghỉ ngơi thư giãn của con thuyền đi vất vả trở về, vừa nói được vẻ yên lặng nơi bến đỗ, một sự yên lặng thích thú sau một ngày náo động. Nhờ cụm từ này mà từ Nghe xuất hiện ngay sau đó ở câu dưới đã mang một ý nghĩa của biển khơi đang râm ran chuyển động dưới cơ thể mình. Hai câu thơ miêu tả con thuyền như một thể sinh thể sống. Nhưng nói về con thuyền, kì thực cũng để nói về con người cả thôi. Giờ đây những người dân chài có thể hoàn toàn yên tâm mà ngả mình mãn nguyện và lặng yên thư giãn. Cái dư vị của chuyến đi chỉ còn là đôi hình ảnh thấp thoáng, chập chờn trong tưởng tượng êm dịu của nó. Có thể nói trong khổ thơ này, tác giả viết nên nhiều câu thơ đẹp nhất.
Bốn câu thơ cuối, nhà thơ trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ về hình ảnh làng chài theo ấn tượng chung nhất: màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, con thuyền rẽ sóng, và đặc biệt nhớ cái mùi nồng mặn quá. Nhớ đến cả cái mùi vị riêng biệt của thổ ngơi, tức là nỗi nhớ thật da diết và sâu sắc. Vâng, đó chính là mùi của biển cả, của sóng, của gió, của rong rêu, của cá, của cả cái vị mồ hôi trên lưng áo người đi biển… Cái mùi vị quen thuộc và thân thương đó cũng chính là một phần của hồn làng, của hồn vía quê hương.
Bài thơ trong trẻo từ đầu đến cuối. Đó là tấm lòng yêu nhớ quê hương của một lòng trai thuần hậu gắn bó với cuộc đời. Trong đời mỗi người đều có một quê hương để nhớ. Với Tế Hanh, cái làng chài lưới này đã trở thành nguồn thi cảm không vơi cạn. Cùng với bài thơ này ngày ấy, nhà thơ còn những Lời con đường quê, Một làng thương nhớ… với bao vui buồn thân thiết. Sau Cách mạng, khi sống giữa hai nửa yêu thương, Bắc – Nam xa cách, ông cũng lại đau đớn nhớ về cái làng quê ruột thịt ấy qua nhiều bài thơ, mà tiêu biểu nhất là Nhớ con sông quê hương. Người ta -thường hay nói ông là nhà thơ của quê hương sông nước, mà trong nhiều trường hợp, quê hương chỉ thu gọn về một cái làng chài lưới của riêng ông.
Thủy chung với một miền quê – một miền thơ như thế, nên trong rất nhiều giọng điệu thơ làng quê lúc bấy giờ như Nguyễn Bính, Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Vàn Cừ, và kể cả nhiều tác giả sau này, những vần thơ quê hương của Tế Hanh vẫn còn có một vẻ đẹp riêng độc đáo, hấp dẫn bạn đọc nhiều thế hệ.
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh – Bài làm 4
Anh đi anh nhớ quê nhà… Đó là tâm trạng chung của bất cứ ai khi phải xa quê – Tế Hanh cũng vậy – Từ lúc còn là một cậu học trò mười tám tuổi, đang theo học ở Huế – Chàng thanh niên ấy đã nhớ nhà nhớ quê, nhở cái làng chài ven biển, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Thế là những câu thơ tưởng nhớ quê lại ra đời một cách tự nhiên chân thành và tha thiết. Mấy ai quên được bài thơ Quê hương của Tế Hanh thuở hoa niên ấy.
Bài thơ mở đầu như là lời tự xưng danh, tự thuật rất đỗi tự nhiên và mộc mạc.
Làng tôi ờ vốn làm nghề chài lưới.
Và sau đó nhà thơ đã kể, đã tường thuật về cái làng chài của mình. Câu thơ có tính thông báo tiếp theo cho thấy đây là một làng chài ờ vùng cửa sông gần biển. Bằng hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã giới thiệu vị trí địa lý và đặc điểm nghề nghiệp của làng quê Quê là làng – nghề của làng là chài lưới.
Trong tâm tưởng của nhà thơ, sau lời giới thiệu ấy, hình ảnh làng chài như đang hiện ra trước mắt. Và nhà thơ đã miêu tả cụ thể một ngày ra khơi đẹp trời, dân làng bơi thuyền đi đánh cá. Trong khung cảnh trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng. Phải nói đó là một buổi sáng dẹp trời lý tưởng – vẻ đẹp tinh khôi, mát mẻ, dễ chịu, thoáng đãng, bao la sắc hồn của bình minh. Và chỉ những người làm nghề chài lưới mới thấy hết được tầm quan trọng thiết yếu của những buổi đẹp trời – Không chỉ báo hiệu một buổi ra khơi yên lành, mà còn hứa hẹn những mẻ lưới bội thu. Trong cái quanh cảnh dễ làm lòng người phấn khích ấy, đoàn trai tráng bơi thuyền ra khơi, bắt đầu một ngày lao động của mình. Làm nghề đánh cá nặng nhọc này phải là những người khỏe mạnh vạm vỡ mới có thể đảm đương nổi. Chỉ có những chàng trai mới có thể điều khiển được chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang. Có thể nói đây là một chuyến ra khơi đầy hào hứng. Những câu thơ miêu tả trực tiếp cảnh dân làng ra khơi đánh cá có ý nghĩa như những chi tiết tả thực giúp người đọc hình dung được không gian hình ảnh, đoàn thuyền khá sinh động. Trên nền kể tả ấy xuất hiện hai câu thơ mang vẻ đẹp bất ngờ:
Cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Cánh buồm là một vật cụ thể hữu hình được ví với mảnh hồn làng là cái trừu tượng, vô hình – một cách ví von nhờ sự liên tưởng khá xa và độc đáo của tác giả. Mỗi một vùng quê sinh sống lâu đời, dường như bao giờ cũng mang một nét rất riêng. Và người xa quê thường cảm nhận nó như linh hồn của làng quê. Đối với Tế Hanh thuở mười tám tuổi, hình ảnh chiếc buồm ra khơi dường như mang hơi thở, nhịp đập, quê hương. Một cánh buồm rướn thân trắng bao la thâu góp gió thật đẹp trong dáng vẻ cường tráng, sức vóc tung tỏa của nó. Hai câu thơ diễn đạt hình ảnh giàu ý nghĩa, đưa nó lên thành biểu tượng của tâm hồn.
Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lại được miêu tả trong bốn câu thơ:
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Tác giả không tả một ai cụ thể, mà là tả chung không khí làng chài. Ở đây chỉ có âm thanh ồn ào; chỉ có trạng thái tấp nập, nhưng rõ ràng là một không khí vui vẻ, rộn ràng, thỏa mãn. Nhờ ơn trời như là tiếng reo vui, tiếng thở phào nhẹ nhõm cảm tạ thiền nhiên trời biển đã giúp đỡ. Phải con em làng chài mới thấy hết được niềm vui bình dị khi đón ghe đầy những con cá tươi ngon.
Trong khung cảnh ấy, hình ảnh những trai tráng sức vóc dạn dày sóng gió, có làn da ngăm rám nắng được hiện lên qua những câu thơ thật đẹp Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Đây là chân dung những người dân chài lưới, đó như là những sinh thể được tách ra từ biển, mang vị mặn mòi của biển, mang theo về cả những hương vị biển xa. Họ là những đứa con của biển khơi. Câu thơ thật lãng mạn, khoáng đạt, mang vẻ đẹp giản dị nhưng cũng thật khỏe khoắn, thơ mộng.
Con thuyền trước đây hăng như tuấn mã phăng mái chèo mạnh mẽ ra đi, bây giờ mỏi mệt trở về bến nghỉ. Con thuyền lại được nhân hoá, nó nằm im, mỏi mệt thư giãn và lắng nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Trạng thái nghỉ ngơi của con thuyền thật đặc biệt. Và cũng phải yêu quý lắm, với có thể thấy con thuyền cũng là một thành viên của làng biển như tác giả đã hình dung. Nhưng nói về con thuyền, kì thực cũng nói về con người cả thôi. Giờ đây những người dân chài có thể hoàn toàn yên tâm mà ngả mình mãn nguyện và lặng yên thư giãn. Dư vị của chuyến đi chỉ còn là đôi hình ảnh thấp thoáng, chập chờn trong tưởng tượng êm dịu của họ.
Kết thức bài thơ, tác giả trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ về hình ảnh làng chài theo ấn tượng chung nhất: Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vơi, con thuyền rẽ sóng, và đặc biệt nhớ cái mùi nồng mặn quá.
Nhớ đến cả cái mùi vị riêng biệt của xứ biển tức là nỗi nhớ thật da diết và thật sâu sắc. Vâng, đó là mùi của biển cả, của sóng, của gió, của rong rêu, của cá, của cả cái vị mồ hôi trên lưng áo người đi biển. Cái mùi vị quen thuộc và thân thương đó cũng chính là một phần của hồn làng của quê hương.
Bài thơ trong trẻo từ đầu đến cuối. Đó là tấm lòng yêu nhớ quê hương của một chàng trai thuần hậu gắn bó với cuộc đời. Với Tế Hanh, cái làng chài lưới này đã trở thành nguồn thi cảm không vơi cạn. Người ta thường nói ông là nhà thơ của quê hương sông nước, mà trong nhiều trường hợp quê hương chỉ thu gọn về một cái làng chài lưới của riêng ông.
Tóm lại Quê hương là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ dung dị đằm thắm của Tế Hanh. Với nghệ thuật đặc sắc ở cách cảm nhận tinh thế, hình ảnh đặc trưng và chắt lọc, tác giả làm sống mãi một làng chài thân thương trìu mến. Thủy chung với một miền quê – một miền thơ như thế nên vần thơ quê hương của Tế Hanh vẫn giữ mãi một vẻ riêng độc đáo, hấp dẫn bao thế hệ yêu thơ.
Từ khóa tìm kiếm
- phan tich tinh yeu que huong cua te hanh
- phan tich bai que huong lop 8
- phan tich kho hai bai que huong cua te hanh
- Phân tich tinh yeu que huong trong bai que huong cua te hanh
- viết bài văn nêu cảm nhận của e về đoạn thơ: làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới com
- viet doan van phan tich canh đoan thuyên ra khôi danh ca cua bai que huong co su dung cau ghep va cau tran thuat
- đoạn văn nghị luận chứng minh tình yêu quê hương của tế hanh qua khổ thơ cuối