Cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Văn mẫu lớp 11
Cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Văn mẫu lớp 11 4.8 (96%) 380 votes Cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm Hà Nội Nguyễn Bính là thi sĩ của đồng quê, như nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: ...
Cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Văn mẫu lớp 11 4.8 (96%) 380 votes Cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm Hà Nội Nguyễn Bính là thi sĩ của đồng quê, như nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: “Chỉ có quê hương mới tạo ra được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. ...
Cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm Hà Nội
Nguyễn Bính là thi sĩ của đồng quê, như nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: “Chỉ có quê hương mới tạo ra được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỉ đề thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình yêu tuyệt vời của Nguyễn Bính”. Để bàn luận đến phong cách thơ bình dị, mộc mạc, đậm chất thôn quê của Nguyễn Bính, chúng ta không thể nào không nhắc đến Tương tư.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn đương thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu. Nhưng cách biểu hiện thì theo một lối riêng của chính ông. Trong khi các nhà thơ lãng mạn hướng về phương Tây, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây, thì Nguyễn Bính hướng về nghệ thuật dân tộc, chịu ảnh hưởng của thơ ca dân gian. Với Tương tư, Nguyễn Bính bắt đầu chủ đề tình yêu bằng một nỗi nhớ:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người”
Trong cuộc sống hàng ngày, tương tư là chỉ nỗi nhớ nhung đơn phương, thầm kín của người con người với đối tượng mà mình có cảm tình hoặc yêu thích. Vậy mới nói, tình yêu nào cũng bắt đầu bằng nỗi nhớ, và tình yêu trong Tương tư cũng vậy. Cũng là nhớ, nhưng là “chín nhớ mười mong”, là nhớ thương khắc khoải. Cái nỗi nhớ da diết tưởng chừng như không đong đếm được được nhà thơ gói gọn trong bốn chữ “chín nhớ mười mong” nhưng lại càng khiến cho nỗi nhớ như trải rộng thêm ra, đầy thêm lên.
Nỗi nhớ ấy chính là tương tư, chính là biểu hiện của tình yêu! Đến hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khẳng định đó chính là tình yêu! Vì yêu nên mới “chín nhớ mười mong”, vì yêu nên mới tương tư, chờ đợi:
“Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Đến đây, nỗi nhớ đã được chỉ đích danh. Đó là nỗi nhớ của tình yêu, nỗi nhớ của một người con trai dành cho một người con gái. Người con trai đang yêu này là con người có gốc rễ sâu xa với làng mạc quê hương. Vì thế, đến cả cái chất yêu, cái chất nhớ cũng đượm tình quê, hồn quê bình dị mà chân thật. Thơ của thi sĩ lãng mạn mà như của dân dã, nỗi nhớ mộc mạc mà lại đằm thắm, tâm tư. Nguyễn Bính thích lối cụ thể hóa cái trừu tượng của ca dao, cụ thể ra thành chữ số (yêu nhau tam tứ núi cũng trèo), nhưng lại có cấu trúc điêu luyện của thơ:
“Một người chín nhớ mười mong Một người”
“Một người” đứng ở hai đầu câu thơ, tạo ra một khoảng cách, diễn tả sự xa cách, nhớ mong như vậy quả là hay, quả là độc đáo! Tâm trạng của người tình đơn phương cũng được mở ra với trời đất. Rằng trời cao kia cứ nắng cứ mưa, còn “tôi” đây dù nắng dù mưa vẫn một nỗi lòng yêu thương, nhớ nhung “nàng”.
Có lẽ đây chính là hai câu thơ được nhiều người nhớ nhất, nhiều người nhắc tới nhất của Tương tư – Nguyễn Bính. Bởi nó không chỉ là tâm trạng của chàng trai thôn quê trong riêng Tương tư mà còn là nỗi niềm chung của biết bao chàng trai đang yêu khác, câu thơ như nói thay tâm tư của họ.
Thương thầm nhớ trộm, đơn phương vẫn biết “quyền được yêu” của con người, nhưng đã đơn phương thì lấy quyền gì trách móc? Tình yêu đôi khi phi lí như vậy:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”
Đọc câu thơ, ta thấy tội nghiệp cho người trách hơn là người bị trách. Rõ ràng là nàng “Thôn Đông” đâu có hay biết rằng mình đã lọt vào mắt xanh của chàng “Thôn Đoài”. Nhưng thấy người ở Thôn Đoài mười mong chín nhớ đến độ tự hờn giận vu vơ lại thấy thật tội nghiệp, đáng thương. Đáng thương nhất không phải tình cảm không được đáp lại mà là ngay cả mình thích người ta cũng không để người ta biết, không dám để người ta biết, chỉ biết lặng lẽ nhớ mong rồi chờ đợi vào hai chữ “vô tình”.
Rõ là chung làng, không gian gần thế mà sao cái “chung” đã không chung được thì thời gian càng đằng đẵng, nỗi chờ mong càng vò võ:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Cách sử dụng láy chữ “ngày qua ngày lại…” như là âm hưởng của luyến láy trong âm nhạc dân gian, như dân ca, như hát chèo. Cách phô diễn của Nguyễn Bính cũng uyển chuyển. Cùng là sự vận động của thời gian mà câu trên là nhạc, và câu dưới là màu. Nhạc là của ngày, màu là của mùa. Nhưng không thể viết “mùa qua mùa lại…” mà phải viết “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” thì ấn tượng tương tư mới đậm, tương tư đến vàng vọt cả “lá xanh” hay là héo úa cả tuổi xanh?
Trong tình yêu, sợ nhất là chờ đợi, mà lại còn là không biết sẽ chờ đợi bao lâu. Bởi thế mới càng nhớ nhung, càng nhớ càng sinh ra bứt rứt, vu vơ hờn giận:
“Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho”
Hết trách móc lại chuyển sang kể lể, than thầm. Kể lể như vậy là để bộc lộ lòng yêu tha thiết của người tình, nhưng khốn nỗi có “ai” biết cho nỗi lòng tương tư trắng đêm ấy. Những từ “ai” phiếm chỉ được điệp lại gây âm hưởng trùng điệp nghe mà não lòng. Những từ “ai” gợi nhớ những từ “ai” trong ca dao:
“Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”.
Than thầm, trách móc vì yêu, vì nhớ, vì tương tư. Tình cảm đơn phương vốn xưa nay chẳng mấy ai vui. Có lẽ nhớ thương não nề vì mong ước vô vọng, sự chờ đợi khiến trái tim tình si thêm khao khát, lại nhuốm thê lương:
“Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
Cùng một lúc nhà thơ dùng hai biểu tượng bến và đò, hoa và bướm thường thấy trong ca dao. Cũng như trong ca dao, biểu tượng tĩnh như bến, hoa ám chỉ người con gái, biểu tượng động như đò, bướm ám chỉ cho người con trai. Vận dụng biểu tượng chung, Nguyễn Bính đã khéo léo biểu đạt cảnh ngộ riêng của đôi bạn tình. Sao lại “Bao giờ bến mới gặp đò”? Thế là mong ước của chàng trai vô vọng rồi. Đò dịch thì thuận chứ sao lại đòi bến dịch? Cho nên cứ trách “cớ sao bên ấy chẳng sang”, rồi “không sang là chẳng đường sang đã đành”, rồi “tình xa xôi”. Lại nữa “hoa khuê các” làm sao gặp “bướm giang hồ”? Rõ ràng là Nguyễn Bính đã thổi vào hoa – bướm của dân dã một chút tình lãng mạn của thời đại. Thành ra cuộc tình của đôi lứa vừa có cái bí ẩn như những cuộc tình trong ca dao lại thêm chút “khó hiểu của thời đại” như Hoài Thanh từng nói. Thực chất, sâu trong thâm tâm, dẫu trái tim tình si có yêu thương, nhớ nhung mãnh liệt nhưng vẫn cảm nhận được sự vô vọng, mộng tưởng xa xôi. Thế mới là tương tư, thế mới chỉ biết tương tư, thầm sầu, thầm trách trong đơn phương vô vọng.
Cuối bài thơ, nhịp thơ trở về với giai điệu ban đầu, câu thơ chỉ khác ở chỗ có thêm một vài biến tấu:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Câu thơ “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông” được nhắc lại, có thêm cặp biểu tượng của tình yêu là trầu – cau. Dẫu trầu cau là biểu tượng kết đôi, lứa đôi hạnh phúc nhưng dẫu có trầu, có trầu, có cau thì cũng chỉ là nhớ đơn phương thôi, người nhớ người, cau nhớ trầu, chứ không làm sao “đỏ với nhau được” như ca dao:
“Miếng trầu với lại quả cau
Làm sao cho đỏ với nhau thì làm”
Ấy thế mới lại càng khắc khoải không yên, càng tương tư day dứt. Tương tư là nỗi nhớ mong, mà nhớ mong thầm kín, đơn phương thì há chẳng phải là thất tình? Bởi thất tình mới cứ mãi vấn vướng không dứt, cứ buồn man mác mà chẳng biết ngỏ cùng ai, chỉ biết thốt lên dăm bảy câu thơ tỏ lòng cùng nỗi nhớ, có trách móc, hờn giân đấy, mà là “giận thì giận mà thương càng thương”.
Thơ Nguyễn Bính chở đầy tình quê, hồn quê, thắm đượm cái chất “hương đồng gió nội”. Bởi vậy, thơ Nguyễn Bính thành ra lạ so với trường phái thơ lãng mạn đương thời. Sức hấp dẫn của Tương tư không chỉ là ở chuyện tình yêu lứa đôi mà còn ở tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương, với người với cảnh, ở sự nâng niu trân trọng của nhà thơ đối với nghệ thuật dân tộc, ở lối tư duy thơ đậm màu sắc dân gian, mỗi câu thơ đều đượm sắc ca dao dân ca mộc mạc, thuần túy. Quả là một hồn thơ quê thanh khiết, bình dị mà đằm thắm, sắc son hiếm có!
Cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 2
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông…
Câu thơ như con gió heo may rải đồng, tuy có bâng khuâng nhưng chưa có gì là cụ thể cả. Một nỗi nhớ mơ hồ kiểu “Hôm nay trời nhẹ lên cao — Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” của Xuân Diệu, chỉ khác ở chỗ: nó bát. ngát đồng quê. Không phú, tỉ, như ca dao, bài thơ bắt đầu bằng chính cái mà nhà thơ chợt có ở trong lông rồi gọi nó thành tên: nỗi nhớ. Nhưng vì sao không nói: anh nhớ?
Tính chất ước lệ khi nói về địa danh là của ca dao (Làm trai cho đáng nén trai – Xuông Dông Dông tĩnh, sang Đoài Đoài yêu). Nhưng ca dao khi nói đến nhớ thương thường dùng đến các loại chất liệu đời thường hỗ trợ: tấm áo, chiếc khàn, ngọn đèn, thuyền, bến… Thì ở đây, đế cụ thể’ hóa cái chủ thế nhớ nhung và đối tượng của nỗi nhớ nhung lại là một dại từ kóp: “Một người” (Một người chín nhớ mười mong một người). “Một người” không đơn nghĩa, tuy một mà là hai và tuy hai lại là một. Hai chữ “Một người” ở đầu và cuối thơ chính là mốc giới của cái cầu Õ Thước nối hai bờ bàng những sợi dọc sợi ngang của “chín nhớ mười mong”. Hai câu khai vị có phần dột, ngột vì bữa tiệc tinh thần như thế thì có phần khó chấp nhận với người nghe. Mặc cảm ấy được Lháo gỡ bằng hai Câu xí xóa:
Gió mưa là chuyện của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Thì ra trời cùng với người đồng bệnh, căn bệnh muôn thuở từ khi khai thiên lập địa đến nay. Một ý nghĩa thật táo bạo và nên thơ! Nó mở rộng phạm trù, nó dân chủ hóa, bình đắng hóa căn bệnh tương tự. Tạo ra được một thê liên minh như thế, bài thơ đã nhập đề một cách ý nhị, có duyên, gợi được sự thông cảm.
Từ đó, ba khổ thơ kế tiếp chính là sự phát triển, mở rộng khái niệm tương tự, nhưng ở vào thế liên kết tài tình. Ta như thấy một khung nhà bề thế, vuông vức hiện lên với những cột kèo, quá giang, dui mè đầy dủ lộ bộ mà người thợ cả không đóng đến một chiếc đinh hay buộc them một nút lại. Ấy là nhờ vào mộng mẹo, nhờ vào trí khôn với sự lắp ghép như thần, ơ dáy có hai hình thức liên kết. Hình thức thứ nhất là sự lặp lại như giữa khổ một với khe hai. Nếu khổ một bắt đầu với “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Dông” thì khổ hai “Có sao bên ấy chẳng sang bên này” (Một sự lặp lại nhưng có sự đổi chỗ cho nhau) Hình thức thứ hai của sự liên kết chính là sự giằng kéo lẫn nhau của khổ hai (Hai thôn chung lại một làng – Cớ sao bên ấy chẳng sang bôn này) sinh nở ra khổ ba (Bảo rằng cách trở đò giang) thì cặp lục bát thứ hai của chính khổ ba lại hóa kiếp đầu thai thành khổ bên (Tương tư thức mấy đêm rồi). Riêng khổ kết lại “niêm” với khổ đầu, thương nhớ với rất nhiều những thôn Đoài thôn Đông, với nhà em nhà anh, những cau với trái trầu thật bối rối tâm can!
Bây giờ đi vào ý chính của bài thơ với chất thơ hai giọng: Trách móc thơ than. Trước hết nói về sự trách móc. Đề trách móc trong nhớ nhung, người la tìm ra những cái cớ. Những cái cớ này nhiều khi rất vô tình, trách không oan Cái cớ ở đây mà chàng trai đưa ra chỉ xoay quanh cái trục của ý thơ xưa: “Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ”, hay ca dao cùng nói “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo”. Vậy mà ở đây, giữa chàng với nàng dâu có cách núi, cách sống giữa “Hai thôn chung lại một làng” đâu có phải là “thôn lí”? Không nhữr.ĩ trách móc mà còn như chì chiết, đay nghiến:
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang dã đành
Nhưng đây cách một đầu dinh
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi.
Đúng là ở đây, Nguyễn Bính đã dùng lục bát điệu nói chứ không phải lục chất điệu ngâm (như Truyện Kiểu chẳng hạn), ngôn ngữ gần gũi để nói được nỗi niềm sâu kín một cách hồn nhiên. Giọng điệu có tính chất phân trần cũng nhằm vào cái đích ấy. Những từ lặp như từ sang, từ xa xôi có một trọng âm ý nghĩa nhấn vào sự bất công, lỡ dở mà người nói là nạn nhân. Còn với cách lập luận người ta thế kia còn mình thế nọ lại có gì như oan ức làm tăng lên cái tâm trạng giận hờn rất dễ thương của người trong cuộc. Trách ở đây là trách ihẹ, giận cũng là giận yêu. Xét cho cùng Đó cũng là một thứ hạnh phúc “Được giận hờn nhau sung sướng biết bao nhiêu” (Xuân Diệu). Nhưng trách giận hay lay nghiên, tất cả đều rất ngây thơ theo cái lối suy diễn một chiều. Bởi lẽ tình yêu của chàng trai chỉ là tình yêu đơn phương, tình yêu một phía. Phía người con gái đâu đã có “năm tao bảy tuyết” hò hẹn gì mà chàng trai có quyền trách giận? Do vậy, có nói thế, nói nữa cũng chảag động lòng ai!
Tất cả đều đặt trên cái nền giả tưởng mà tiếng đồng vọng không cốt để ai nghe, chỉ mình nói mình nghe, nghe trong sự lẻ bóng, cô đơn mà trở nên tha thiết, não lông: “Ngày qua, ngày lại qua ngày lá xanh nhuộm dã thành cây lá vàng”
Cái đau của từ “nhuộm” không chỉ là ở chỗ nó khác với “nhuộm” như có r.gười đã so sánh ở sự hoàn tất hay khởi đầu một quá trình biến đổi, mà cái chính là tâm trạng hóa thiên nhiên, chủ quan hóa khách quan tạo nên một íồng cảm giữa tạo vật với con người. Trong sự dồng cảm ấy, một chuồi thời gian vô vọng đã diễn ra, ngày nọ nối ngày kia “Sầu đong càng lắc càng đầy”. Lá vàng của cỏ cây tưởng là lẽ tất nhiên khi mùa thu đến, nhưng không phải. Vốn là hi vọng tươi xanh, nay nó tàn héo mất rồi. Hai câu thơ ấy gợi nhớ hai câu thơ khác có mô típ tương đương:
Thu sang, rồi lại thu sang
Cúc bao lần nở thu vàng bao rơi
(Dòng dư lệ)
Đến đây thì giọng thơ thương mình mới nức nở trào dâng: “Tương tư thức mấy đêm rồi — Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”. Có một sự kìm nén trong iông nhưng cầm lông không được giống như Nguyễn Khuyến khi mất Dương Khuê: “Câu thơ nghĩ đắn đo không viết – Viết đưa ai, ai biết mà đưa”. Cũng hun hút xa xôi một đợi trông cách trở, chì có khác một là tình yêu, một là tình bạn mà thôi. Là tình bạn nay kẻ mất người còn, điều ấy thì còn có lí, nhưng với tình yêu, nó thật phi lí:
Bao giờ bên mới gặp đò
Hoa khuẽ các bướm giang hồ gặp nhau?
Câu thơ hàm nghĩa mỉa mai ở sự đối lập một là “hoa khuê các” với một là “bướm giang hồ”.
Kết thúc bài thơ là một dụng công nhưng có phần lộ liễu. Dụng công là ở chỗ người thơ đã gọi gió bốn phương theo lối dồn dập bắc cầu. Thôi thì trầu cau, nhà em nhà anh, thôn Đoài thôn Đông đu hết, giống như một thứ lễ cưới tinh thần nhưng cô dâu trốn biệt:
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
Hai câu kết chỉ là một khoảng trông dành cho một người mà chúng ta đều biết đó là ai. Chỉ cần thay thế “thôn nào” bằng “thôn nàng” là xong, nhưng như thế thì ý tứ lộ ra hết. Ngay như nói “thôn nào” cùng có úp mở gì chăng? Cần một cách nói kín đáo hơn, nhưng có lẽ vì quá yêu mà chàng trai đã không tìm được cho mình một nơi ẩn nấp?
Cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 3
Bài Tương tư nằm trong một thi tứ bao trùm Thơ mới: tình yêu nam nữ – thứ tình yêu hiện đại trăm hình muôn trạng của văn học lãng mạn giai đoạn 1930 — 1945… cái tình say đắm, cái tình thoảng qua; cái tình gần gũi, cái tình xa xôi…, cái tình trong giây phút, cái tình thiên thu.
Con người lãng mạn trong bài thơ Tương tư đã thao thức chín nhớ mười mong người thương ròng rã suốt mấy đêm rồi, mong nhớ hết ngày này đến ngày khác, thậm chí hết tháng này qua tháng khác: Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng… Theo đạo lí quân tử tu, tề, trị, bình Nho gia, nhất là Tống Nho, thì kẻ nam nhi như thế là hỏng quá… Nhưng sức cuốn hút của thơ tình Nguyễn Bính trong bài Tương tư chủ yếu không phải do thái độ thành thực giãi bày nỗi niềm chín nhở mười mong nay do sự cải lí cho tính phù hợp quy luật của tình yêu nam nữ, đặng biện hộ cho đạo lí nhân văn (không ít nhà thơ lãng mạn đương thời bộc lộ tình cảm yêu thương nhiều khi còn đắm đuối hơn (Ao ước – Tế Hanh), tinh tế hơn (Ngậm ngùi – Huy Cận) hoặc não lòng hơn: Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ – Lạc giữa niềm êm chẳng bến bà – Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá – Hai người nhưng chẳng bơ va (Trăng – Xuân Diệu); mà sức cuốn hút chủ yếu là bởi những rung động của trái tim thi sĩ (thể hiện trong cấu tứ cũng như ở ngữ điệu – giọng) dung hợp rất nhuần nhuyễn tính cách dân tộc.
Chúng ta đều rõ: Linh hồn của một dân tộc thể hiện tập trung ở các hình thái folklore. Trong folklore Việt Nam có khu vực đặc biệt phát triển: thơ ca dân gian không chỉ do số lượng, mà còn ở chất lượng, ca dao dân ca là một tổng kho văn hóa chứa đựng trí tuệ, tâm linh, thần thái Việt… và trong kho tàng tinh thần đó, xuất hiện biết bao vần thơ tình yêu đặc sắc không thua kém bất cứ một khúc tình ca nào trên thế gian. Nhà thơ Nguyễn Bính chính là một chú bướm (Con bướm vàng tuyển đậu Thám hoa – Truyện cổ tích) đã xâm nhập rồi lượn bay trên một cùng văn hóa dân gian đặc biệt của dân tộc: ca dao dân ca, và ssã hấp thụ được một lượng hương nhụy đáng kể… Trong thơ mới, tất nhiên không phải chỉ riêng Nguyễn Bính, mà một số thi sĩ khác cũng đã quy tụ gần xa chung quanh vùng văn hóa cội nguồn dân tộc này – như tác giả Thi nhân Việt Nam từng nhận xét: Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vịn vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai. Tình hình ấy cũng hoàn toàn phù hợp với một quy luật hình thành văn học lãng mạn thế giới; ví dụ không ít những cây bút lãng mạn châu Âu thế kỉ XIX cũng đã quay về với dân tộc, văn hóa dân gian, quan tâm sưu tầm các sáng tác dân gian theo quan niệm: cần hợp hồn giữa thời xưa và thời nay (Mickiêvich) vì có khi: phải tìm đến dân ca mới thấy được thơ chân chính.
Một trong những nét đặc trưng của tính cách Việt là ý thức về độ (không vượt ngưỡng). Ý thức về độ ấy đã chi phối nhiều khu vực văn hóa dân gian Việt: về kiến trúc, các công trình xây dựng không quá lớn, về sân khấu tuồng, bi mà vẫn tráng, chèo khi đau buồn phải có hề ra tró xua tan ngay không khí thảm sầu, về tín ngưỡng, lễ hội, nghiêm trang mà không khe khắt, về ứng nhân xử thế, ít muôn cạn tàu ráo máng… Ý thức về độ của tính cách Việt do các nguyên nhận lịch sử, đại lí lâu đời quyết định… Đồng hành trong hệ thông văn hóa ấy, tình yêu nam nữ trong ca dao dân ca tuy đắm đuối thiết tha mà không mấy bi lụy – cái thi tứ rũ liệt đến muốn tự diệt vì tình tuyệt vọng hầu như không xuất hiện trong thơ ca dân gian. Vả chăng, người bình dân (gồm cả lao động và trí thức) chủ nhân văn hóa dân gian, trong cuộc sống lúc đang lúc đang yêu thì thường cũng là khi đang có nhiều trách nhiệm lớn nhỏ ràng buộc – đối với gia đình chẳng hạn. Hãy nghe lời van vĩ dễ thương của một thôn nữ tội nghiệp xưa:
Chàng ơi buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa rau nó héo đi
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em.
Chúng ta tin chắc rằng dẫu thiếu nữ ấy có trong tình huống
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mà mắt không khô.
Đi nữa, thì cô cũng khó tùy tiện ngã bệnh hoặc liều thân, bởi vì ai sẽ thay cô tần tảo nuôi mẹ, nuôi em? Do đó, sầu tương tư, tình tuyệt vọng.. trong ca dao dân ca xưa chỉ đưa chàng đến mức nuối tiếc:
Tiếc công anh đắp đập be bờ.
Để ai quăng đó, đem lờ đến đơm,
Đêm qua vật đổi sao dời,
Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan…,
hoặc dẫn nàng đến độ ngẩn ngơ:
Ngày ngỳ em đừng em trông
Trông non non ngất, trông sông sông dài…,
quá nữa là:
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai dòng nước mắt dầm dầm như mưa…,
và trạng thái thông thường của họ là:
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện chăng tơ…
sầu nhớ quá, nhưng… còn nhiều việc phải làm.Tình yêu không thể là cứu cắnh duy nhất!
Nét chủ yếu của tính cách dân tộc trong bài thơ Tương tư chính là khuynh hướng cấu tứ khái quát mang ý nghĩa về độ chín: chín nhớ mười mong dài theo tháng ngày, dẫu biệt vô âm tín vẫn tiếp tục chờ đợi: Bao giờ bến mới gặp đò. với niềm hi vọng xa vời: Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?… và chỉ đến mức ấy thôi, chứ không phải kiểu phản ứng quyết liệt: Rồi anh chết, anh chết sầu chết héo – linh hồn anh thất thểu dõi hồn em… như chàng lãng mạn trong bài Ao ước của Tế Hanh- ý tứ cực đoan này phải chăng chỉ phù hợp với tâm lí một số độc giả thành thị – Phong cách cấu tứ thơ tình yêu với các mức độ tình cảm phù hợp dân tộc tính như vậy đã xuất hiện trong hầu hết những bài thơ của Nguyễn Bính. Những nhân vật trữ tình thơ Nguyễn Bính (người thật hoặc hư cấu, khách thể hoặc chủ thể) dẫu có tâm trạng muốn yêu đơn phương, tình tuyệt vọng… đều ứng xử có chừng mực: một chàng trai bị người yêu thờ ơ, chỉ than thở: Tình tôi mở giữa mùa thu – Tình em lẳng lặng kia như buồng tằm(Đêm cuối cùng), một cô gái bị lỗi hẹn cũng nhẫn nại đợi chờ: Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày – Bao giờ em mới gặp anh đây (Mùa xuân), anh lái đò kia thất tình phẫn chí định bỏ nghề, nhưng rồi lại thôi: Lang thang anh dặm bán thuyền – Có người trả chín quan tiền lại thôi. (Anh lái đò), một chàng trai thất tình không oán hờn mà chẳng nặng lời: Em đã sang ngang với một người – Anh còn trồng cải nữa hay thôi? – Đêm qua mơ thấy hai con bướm – Khép cánh tình chung ở giữa trời (Hết bướm vàng), đau đớn hơn: người yêu yểu mệnh, nhưng nỗi đau ấy đã hòa tan cùng mộng ảo: Đêm qua nàng đã chết rồi – Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng – Hồn trinh còn ở trần gian – Nhập vào bướm trắng mà sang bên này (Người hàng xóm)… và trước thái độ quá thờ ơ của cô gái hái mơ, khách đa tình chỉ trách móc mơ màng:
Cô hái mơ ơi, cô gái ơi
Chả trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng trôi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi…
Đặc điểm dân gian, dân tộc ấy trong cấu tứ khiến những bài thơ tình Nguyễn Bính, trước và sau 1945 dễ dàng tìm được sự đồng cảm và tiếp đón hào hứng cùa một số lượng độc giả lớn(thành phố và tỉnh nhỏ, thành thị và nông thôn…) mà có lẽ chưa nhà thơ lãng mạn nào đạt được.
Quảng đại quần chúng độc giả tìm đến thơ tình Nguyễn Bính còn vì những bài thơ mang tình tứ gần gũi với tâm hồn, tính cách người Việt ấy đã được thể hiện bằng một thứ từ ngữ điệu (giọng) thân quen: giọng ca dao dân ca. Tình ca Tương tư, đó là thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt giàu tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác (Biết cho ai, hỏi ai người biết cho…) Biểu hiện đậm đà chất giọng ca dao dân ca trong Nguyễn Bính phải chăng là các bài: Chân quê, Đêm cuối cùng, Chờ nhau, Giấc mơ anh lái đò, Người hàng xóm và Lỡ bước sang ngang) Bài thơ đã dân gian hóa đến mức được dùng để ru em. Đông đảo người đọc đến với thơ tình yêu Nguyễn Bính còn do những dòng thơ thuần tính cách người Việt đó là đã đánh thức biết bao kỉ niệm êm đềm về quê hương xứ sở thân yêu… Trong bài Tương tư, đó là hình ảnh: thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau… ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi, những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải vàng, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay, ven đê là ruộng dâu, bãi cháy, bãi đất, vườn chè, bên ao bèo, bên giếng khơi, giậu mùng tơi xanh rờn… là những thôn nữ đôn hậu dệt lụa chăn tằm, đi trẩy hội chùa, hội làng, xem hát chèo mùa xuân với trang phục đằm thắm, dây lưng đũi, yếm lạu sồi, áo đồng lẫm, quần lĩnh tía… nhưng anh lái đò, cô lái đò sống giữa hương đồng gió nội và dưới bầu Giời cao gió cả giăng như ban ngày…
Hương đồng gió nội trong thơ Nguyễn Bính sáng tác trước 1945, được đông đảo độc giả mến mộ dài lâu. Hiện tượng ấy khiến chúng ta nhớ lại điều dự báo có sức khái quát của tác giả Thi nhân Việt Nam 50 năm trước : Nếu các thi nhân ta đủ sức chăn thành để kể thừa di sản xưa, nếu họ biết tìm đến thơ xưa với một tấm lòng trẻ, họ sẽ phát huy được những gì vĩnh viễn hơn, sâu sắc hơn mà bình dị hơn trong linh hồn nòi giống. Nhất là ca dao sẽ đưa họ về với dân quê, nghĩa là với chín mươi phần trăm số người trong nước. Trong nguồn sống dồi dào và mạnh mẽ ấy, họ sẽ tìm ra những vần thơ không chỉ dành riêng cho chúng ta, một bọn người có học mới mà có thể làm nao lòng hết thảy người Việt Nam.
Cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 4
Nguyễn Bính được mệnh danh là nhà thơ đồng nội, ghi dấu ấn trong lòng độc giả bằng phong cách nhẹ nhàng, bình dị, đậm chất thôn quê. Bài thơ Tương tư trích trong tập “Lỡ bước sang ngang” của ông thể hiện nỗi niềm tâm sự riêng tư của một người trót nhớ thương khắc khoải về một người.
"Tương tư" chắc chắn không phải là cái tên được tác giả lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Nó là một cái tên đủ để toát lên toàn bộ nỗi niềm ẩn chứa bên trong từng câu chữ. Tương tư chính là cảm giác nhớ thương khắc khoải, chờ mong hồi đáp của một kẻ đang yêu thương cuồng nhiệt, nhưng đáng tiếc lại là tình đơn phương. Tâm chân tình của kẻ yêu đơn phương ấy được dồn nén, được ấp ủ và cũng được bộc lộ qua từng vần thơ chân thành, mộc mạc:
"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người"
Hai câu thơ đơn giản như vẽ lên trước mắt chúng ta một bức tranh thôn quê yên bình, đơn sơ đến lạ. Tác giả mượn "thôn Đoài", "thôn Đông", thông qua thủ pháp nhân hóa được sử dụng tài tình để thổ lộ nỗi nhớ nhung ẩn sâu tận đáy lòng. Ta như nhìn thấy một người giữa tuổi thanh xuân phơi phới, đứng ở thôn này mà hướng mắt xa xăm về phía thôn bên, những mong có thể nhìn thấy bóng hình mà mình thầm thương trộm nhớ.
"Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng"
Câu chuyện nắng mưa của thiên nhiên đã được tác giả sử dụng thật tài tình để nói lên tám lòng củ mình. Nỗi tương tư về một ai đó, giống như căn bệnh trầm kha tồn tại sâu trong tâm hồn và nó là chuyện bình thường, là lẽ dĩ nhiên phải thế giống như quy luật của đất trời. Chỉ với bốn câu thơ mở màn rất đơn giản, tác giả đã thành công trong việc khơi dậy sự thích thú của người đọc trước mối tình bình dị mà cuồng nhiệt của chàng trai thôn Đoài với cô gái thông Đông.
Tuy nhiên, ở những câu thơ tiếp theo, chúng ta lại cảm nhận được nỗi giận hờn, trách móc nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu lắng của chàng trai trước sự hững hờ từ phía cô gái:
"Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Những đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Những câu hỏi nối tiếp nhau dồn dập như lột tả trọn vẹn nỗi lo lắng, bối rối chất chồng đang thổn thức trong lòng của chàng trai đang yêu. Chàng trai bối rối và cũng giận hờn khi dường như cô gái cứ hững hờ, vờ không biết tới tình cảm của chàng trai.
Giọng điệu của mỗi câu thơ đều uyển chuyển, nhẹ nhàng và tha thiết, như chàng trai đang muốn gửi gắm thông điệp tình cảm của mình tới cô gái. Từ "cớ sao" được sử dụng khiến lời trách móc của chàng trai trở nên tế nhị và đáng yêu hơn, đồng thời nó cũng như một lời "gợi ý" cho cô gái. Suốt bao đêm tương tư, chàng trai ấy chỉ có một niềm mong mỏi là "bến" được gặp "đò", "Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau", mong mỏi cô gái ấy sẽ hiểu cho nỗi lòng của mình.
Và rồi trong cái tâm trạng rối bời vì chờ mong khắc khoải ấy, chàng trai lại tự hỏi:
"Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"
Thể thơ lục bát mang lại cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng, dễ đi vào lòng người và sức lay động trở nên to lớn hơn. "Giàn trầu", "hàng cau" lại được tác giả "mượn" để diễn tả nỗi nhớ thương da diết của chàng trai, giống như dây trầu quấn lấy thân cau, như sự "không thể thiếu nhau" của trầu cau trong văn hóa dân gian.
Nhưng bên cạnh sự mộc mạc ấy, việc tác giả thay đổi cách xưng hô một cách táo bạo, từ "tôi với nàng" thành “anh với em” thể hiện tình cảm đó dường như đã quá lớn, quá sâu đậm, thôi thúc chàng trai trực tiếp thổ lộ nỗi lòng với cô gái. Nhân vật trữ tình trong bài thơ có sự bình dị, trong sáng, nhưng cũng có sự chân thành, mãnh liệt.
Có thể nói, nỗi tương tư vốn rất quen thuộc đã được Nguyễn Bính "nghệ thuật hóa" một cách tài tình thông qua ngòi bút xuất thần và thông qua tứ thơ bình dị, mộc mạc.
Cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 6
Nguyễn Bính vốn đã sớm nổi tiếng với dòng văn thơ mang tính chất giản dị chân quê,những câu thơ được dệt nên bởi những chất liệu mộc mạc nhất. Ấy vậy mà trải qua bao nhiêu giai đoạn ,những bài thơ của Nguyễn Bính vẫn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả. “ tương tư” là một trong số những bài thơ hay viết về tình yêu đôi lứa, thấm đượm những tình cảm vừa trong sáng lại vừa chân thực.
Những vấn thơ của Nguyễn Bính không giống thơ hiện đại là mấy mà nó lại giống như những câu ca dao không biết từ khi nào đi vào lòng người một cách dễ dàng như vậy. Lấy cách ví von của người xưa,tương tư lại trở thành một hiện tượng, dám nói trực tiếp lên tình cảm của đôi lứa. Những câu thơ lục bát như những lời hát rồi lại đáp lại của những cặp đôi có tình ý với nhau. Đó là những cảnh của những cô gái chàng trai thầm thương trộm nhớ nhau, đứng ở bên đình tát nước rồi nói ví von cho nhau nghe:
“Hôm qua tát nước bên đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà”
Những câu thơ ấy, sao mà nhẹ nhàng đằm thắm đến thế, như tiếng ru dịu ngọt của tình yêu dẫn dắt những tình cảm từ thuở ban đầu đi sâu vào tâm hồn người đọc. Để khiến người đọc thấy chính bóng dáng của mình ở trong đấy vậy. Rồi những câu thơ khác cũng không kém phần ý tứ sâu xa
“ Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Tát nước dưới ánh trăng làm tan ánh trăng tròn trịa cũng đúng, nhưng chính điều đó mới là cái cớ để làm quen nhau. Chỉ những thứ nhỏ nhặt khó hiểu thế nhưng lại khiến các cặp đôi đi đến với nhau quả thật là lạ. Chính vậy mà cái bệnh mà người ta khó chữa nhất là bệnh ở tâm, là bệnh tương tư, bệnh này chỉ có thuốc tình yêu mới chữa nổi. Thế nên mới có bài Tương tư của Nguyễn Bính
Trong bài thơ, những đặc điểm dân gian khiến tứ thơ của Nguyễn Bính, tìm được sự đồng cảm và tiếp đón nồng nhiệt của đông đảo độc giả. Tương tư với thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt giàu tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác. Cũng trong bài thơ, những hình ảnh như : thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau… ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi, chân quê từ nhà ra ngõ,bến nước hữu tình,con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải vàng, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay, ven đê là ruộng dâu, bãi cháy, bãi đất, vườn chè, bên ao bèo, bên giếng khơi, giậu mùng tơi xanh rờn…
Chữ “tôi” xuất hiện trong bài thơ của Nguyễn Bính thật đáng yêu. Thôn Đoài với thôn Đông là nơi nhà “Nàng” và nhà “Tôi” đang ở,cũng là cách nói cụ thể hóa, hai thôn chính là hai cầu nối cho nàng và tôi gần nhau hơn. Sử dụng hoán dụ – nhân hoá kết hợp với thành ngữ và nghệ thuật phân hợp số từ – vị ngữ “chín, mười, nhớ mong = chín nhớ mười mong” góp phần làm cho tứ thơ trở nên bình dị mà hồn nhiên, đằm thắm. “chín nhớ mười mong một người” giống như tâm trạng “ bổi hổi bồi hồi” hay tâm trạng của cô gái trong bài ca dao “ khăn thương nhớ ai,không chỉ đầy ắp, da diết trong lòng chàng trai đa tình mà còn tràn ngập cả xóm thôn, cả thôn Đông lẫn thôn Đoài. Vì yêu cho nên tương tư đã thành “bệnh”, thật đáng thương,… cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy. Cách so sánh “bệnh giời” với bệnh tương tư “của tôi yêu nàng”, tác giả Nguyễn Bính đã diễn tả hồn nhiên, thú vị về nỗi buồn tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Gần thì thương, xa thì nhớ,đấy là những cảm xúc thường thấy của tình yêu
Những câu nói tiếp theo, việc vận dụng lối nói ước lệ ẩn dụ trong ca dao (bến, đò) trong thơ văn truyền thống (hoa khuê các, bướm giang hồ) thể hiện một nỗi ước mong, khao khát về tình yêu hạnh phúc của lứa đôi rất thiết tha. Để từ đây, tác giả bộc lộ những khát khao trọn vẹn và được đáp trả trong tình yêu đó. Cái tôi trữ tình của chàng trai đa tình, nỗi buồn tương tư, nỗi khát khao ước mong về hạnh phúc “của tôi yêu nàng”, trở thành “cái chung” của nhiều chàng trai, cô gái khác. Tương tư không chỉ là cảm xúc của nhân vật trữ tình “ tôi” trong tương tư mà bài thơ còn nói hộ bao nhiêu người khác. Chính vì thế, cho tới nay, mỗi khi muốn bày tỏ tình ý với người khác,người ta hay nói bóng gió bâng quơ một câu như ý nhắn nhủ với người họ yêu rằng họ cũng đang tương tư vì một ai đó
“Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Những vần thơ của bài thơ Tương Tư vừa có phần thơ mộng lại vô cùng lãng mạn,không có gì có thể thay đổi cảm xúc lâng lâng nhớ nhung đó,dù có trải qua bao nhiêu thời gian đi chăng nữa. Tương tư có những nỗi buồn,có hờn giận trách móc nhưng những cảm xúc đó lại trở thành một đặc sản của tình yêu tạo nên sự đáng yêu và khát khao trọn vẹn trong tình yêu của lứa đôi,đặc biệt là những mối tình đơn phương.
Từ khóa tìm kiếm
- phân tích bài thơ tương tư từ đó so sánh bài thơ tương tư với đây thôn vĩ dạ
- mở bài gians tiếp để cảm nhận ttương tư nguyễn bính
- cảm nhận bài tương tư
- thơ ngắn đối đáp thơ tương tư
- thơ mới việt nam 1930-1945 tình yêu quê hương đất nước một khoảng rộng trong trái tim thơ mới nhớ rừng quê hương sáng tỏ nhận định
- giàn trầu và hàng cau trong bài tương tu
- cảm nhận về bức tranh trong bài tương tư nguyễn bính
- cảm nhận về hai khổ thơ: khổ 1 - Đây thôn Vĩ Dạ và đoạn 2- Tương tư
- cảm nhận về bài thơ người tình hư vô-nguyễn bính
- cảm nhân thôn đoài ngồi nhớ thôn đông