Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Văn mẫu lớp 6
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Văn mẫu lớp 6 4.79 (95.8%) 381 votes Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa Nhắc tới Huy Cận chúng ta không thể bỏ qua được một nhà thơ với những sáng tác mang cảm hứng buồn trước ...
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Văn mẫu lớp 6 4.79 (95.8%) 381 votes Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa Nhắc tới Huy Cận chúng ta không thể bỏ qua được một nhà thơ với những sáng tác mang cảm hứng buồn trước khi bước vào phong trào thơ mới. Những sáng tác của ông mang đậm ...
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa
Nhắc tới Huy Cận chúng ta không thể bỏ qua được một nhà thơ với những sáng tác mang cảm hứng buồn trước khi bước vào phong trào thơ mới. Những sáng tác của ông mang đậm tâm hồn và tài năng của ông xuyên suốt thời gian sáng tác. Tràng giang là một trong số những sáng tác tiêu biểu, thể hiện nỗi buồn sâu thẳm sự xao xuyến bâng khuâng của cái tôi Huy Cận trước cuộc sống, nhưng cảnh vật hiện ra trước mắt của thi nhân vẫn mang một vẻ đẹp ẩn chứa những bất ngờ trong sáng tác.
Cảm hứng để sáng tác bài thơ là khi tác giả đứng trước sông Hồng mênh mông bao la, và khi nhìn thấy sự kì vĩ của thiên nhiên , khiến tác giả lại ngẫm lại chính cuộc sống của mình hiện tại, cũng thật nhỏ bé, không biết sẽ như thế nào trước cuộc đời rộng lớn này. Tràng Giang mang một vẻ đẹp cổ điện, như được chấm phá bằng các nét vẽ linh hoạt của các nghệ sĩ trước bức tranh thủy mặc sơn nước hữu tình. Hai chữ tràng Giang vốn là hai từ hán việt ghép vào nhau mà tạo thành. Tràng có nghĩa là mênh mông, trải rộng còn giang chính là sông. Đây lại là một âm mở,cứ thế nếu cứ ngân dài hai chữ này thì mãi mãi không có kết thúc. Mọi thứ cứ trải dài, trải dài khơi gợi cho độc giả nhiều liên tưởng thú vị. Đầu đề chỉ là 2 chữ đó thôi mà toàn bài thơ lại lấy được cảm xúc của độc giả nhiều đến như vậy. Quả thật sự tài tình của ngòi bút Huy Cận trong miêu tả và thể hiện trong suốt những câu từ của bài thơ. Đứng trước cảnh tượng thiên nhiên hùng vĩ như thế, lòng ông lại dấy lên một nỗi buồn mơ hồ, không hiểu rõ là gì và bắt nguồn từ đâu. Nhưng có lẽ trước sự nhỏ bé của con người trước trời đất, cảnh khiến ta ngẫm nghĩ và chiêm nghiệm về những gì đã xảy ra và những gì đang tới.một nỗi buồn vô cớ, nhưng cái cớ đó lại cho chúng ta những phút giây trải nghiệm và tìm ra câu trả lời cho chính bản thân mình.
Hai câu thơ đầu trong bài thơ lại càng gợi ra vẻ mênh mông và một nỗi trống vắng mênh mang của dòng sông và trong chính tâm hồn thi sĩ. Cái hay của bài thơ là ở chỗ, mặc dù những từ ngữ được sử dụng rất đơn giản nhưng chính nó lại được sử dụng đúng chỗ nên càng tăng thêm vẻ đẹp và chiều sâu ý nghĩa cho bài thơ. “ điệp điệp” là từ láy dùng để miêu tả những gợn sóng trên sông, nhưng nó lại kết hợp với từ buồn khiến chúng ta liên tưởng đến nỗi buồn điệp điệp,đến từng đợt trong lòng thi sĩ. Và hình ảnh tiếp theo cũng được cho là một câu thơ mang sắc thái buồn. Xuất hiện giữa dòng sông là hình ảnh con thuyền,nhưng dường như nó cũng là con thuyền cô độc, hai từ “ song song” được Huy Cận sử dụng như nói tới cảnh không có điểm chúng. Nhưng có lẽ câu thơ hay nhất phải kể đến câu “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Hình ảnh củi khô chứ không phải hình ảnh của một chiếc lá xanh hay một sự vật khác đầy sức sống. Nó đã trở thành một thứ mà trên dòng nước ấy, bị trôi dập không biết về nơi đâu.lại với cọm từ” lạc mấy dòng” càng tỏ ra sự đời trôi nổi, không có sự lựa chọn hay không biết phải chọn cái gì. Đứng trước cuộc đời bao nhiêu ngã rẽ, biết đâu là nơi mà mình có thể đi tiếp, cũng như hình ảnh củi khô, mặc cho gió tấp sóng dập mà vẫn cuộn tròn giữa dòng xoáy cuộc đời.
Những hình ảnh của đoạn thơ tiếp theo cũng không có gì vui hơn, những chi tiết mà ngay khi chúng ta đọc lên đã có một cảm giác ảm đạm thiếu sức sống. Phải chăng nó là cảnh tượng của một buổi chiều tà. Hình ảnh “ cồn nhỏ, làng xa, trời sâu, bến rộng”..như tác giả đang vẽ khiến không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Mọi thứ trở nên “thưa vắng và yên tịnh” . sự tính lặng đó lại càng nổi bật làm nền cho âm thanh, chỉ có một âm thanh xa vang vọng về nhưng lại khiến cho bài thơ, càng chìm vào trong không khí cổ kính, nhuốm màu quá khứ và hoài niệm. Âm thanh đó mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang giãn dần ra theo nắng, theo trời: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Từ “ sâu “ được sử dụng miêu tả độ cao của trời khiến cho hình ảnh miêu tả này rất đắt. Sâu chứ không cao là một sáng tạo, nó gây ấn tượng cho người đọc.tất cả như chòm vào bến cô liêu. Mỗi chữ mỗi hình ảnh của bài thơ đều ngấm cái buồn, cái trống vắng và cô độc, ngay cả bến chờ cũng là Bến cô liêu. Hình ảnh bèo dạt mây trôi khiến chúng ta liên tưởng về những bài thơ, bài ca dao về sự trôi nổi bấu víu. Không biết từ bao giờ bèo trôi về mặt sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Giờ đây, trên sông chỉ còn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Không đò ngang, không cầu bắc, không thấy một hình ảnh hay công trình nào mang dáng dấp con người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Nỗi buồn miên man theo cảnh.mọi thứ đều nhuốm một nỗi buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” và dựng lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng càng dội lên nỗi nhớ quê, lòng quê. Tình thế trôi dạt thiên nhiên khiến chính con người chúng ta càng thêm ngậm ngùi thân phận, thèm tình cảm ấm áp gia đình quần tụ.Tính logic trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. Kết thúc của bài thơ là nỗi nhớ nhà, mọi thứ trong bài thơ được đẩy đến cao điểm và do đó nỗi buồn đó có lí do của nó
Huy Cận đã mang tới cho người đọc những phút chới với trong cảnh sắc của thiên nhiên với vẻ buồn bã cô độc, mọi thứ trỉa dài theo chiều sâu và chiều rộng nhưng nó càng làm cho sự mênh mang thêm sâu sắc. Cảnh khiến lòng xao động, cảnh khiến người ngậm ngùi và cũng chính là lúc khiến con người nhận ra bản thân mình nghĩ gì.Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn.
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm 2
Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng Huy Cận và thể hiện rõ chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã nhiều lần kể lại quá trình viết nó. Cảm hứng thơ được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ ngoại thành Hà Nội. Bây giờ nơi này đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà cao tầng, biệt thự nhưng vào thời Huy Cận viết Tràng giang cho đến mấy chục năm sau, nó đìu hiu sông nước, vắng lặng, đẹp và buồn đúng như trong bài thơ đã tả.
Huy Cận kể lại, ông đã thử vào bài bằng nhiều thể thơ, nhưng cuối cùng chọn thơ bảy chữ, đậm chất Đường thi. Ông còn cho biết Lớp lớp mây cao đùn núi bạc là do ông học ở bản dịch thơ Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa". Ý kết là ông tựa vào thơ Thôi Hiệu, qua bản dịch của Tản Đà “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” để tả nỗi buồn của lòng mình: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Chính không gian Đường thi trong hơi thơ bảy chữ tạo nên sự cộng hưởng cảm xúc đồng chiều ấy. Nếu viết ở thể thơ khác, chưa chắc đã có sự cộng hưởng ấy. Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu. Huy Cận thừa biết mình đứng nhờ trên vai người ta, có cao nhưng không chắc mình có chiều cao hơn người ta. Đọc Tràng giang có thể thấy buồn Hoàng Hạc lâu nhưng là ở nhiều chỗ khác chứ không phải ở câu kết so đo ấy.
Bài thơ này có vẻ đẹp cổ điển, trang trọng mở vào cao rộng trời đất mà nỗi buồn lại thấm thía sâu thẳm xuống một cõi lòng. Nỗi buồn bàng bạc mơ hồ nhưng đụng vào đầu cũng thấy. Mơ hồ vì buồn không rõ lí do cụ thể. Bàng bạc vì không rõ sắc thái, không rát bỏng nhưng ngân nga như một nỗi bâng khuâng, một tâm trạng nhớ không đối tượng: trời rộng nhớ sông dài. Câu đề từ quả đã ôm đủ chủ đề bài thơ. Nỗi bâng khuâng buồn nhớ đựng đầy không gian. Cảnh nào cũng gợi buồn, cảnh bị nhiễm vào từ trường tình cảm. Huy Cận nói: Đây là bài thơ của tâm hồn. Tâm hồn ông khi ấy thường trực một nỗi buồn thế hệ, cái thế hệ vừa biết suy nghĩ thì chạm ngay vào nỗi buồn mất nước, vào thân phận nhược tiểu, một linh hồn nho nhỏ/ mang mang thiêng cổ sầu. Chất tâm hồn bất thường bắt rất nhạy cảm xúc không gian rộng xa, vắng lặng hắt hiu. Riêng với Huy Cận, người đã từng “nghiêng tai kì diệu” nửa nghe vũ trụ nửa nghe lòng mình. Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn thì không gian trời nước quãng sông Hồng nơi Chèm Vẽ cộng hưởng với lòng ông mà thành thơ là điều không khó hiểu.
Chữ tràng trong Tràng giang đề bài và trong câu đầu tiên vốn ít dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hơn trường nhưng Huy Cận lại chọn dùng… Có người giảng là để khỏi nhầm với sông Trường Giang bên Trung Quốc. Chả hiểu có đúng thế không. Nhưng chỉ căn cứ vào âm thanh (chứ không phải chỉ nghĩa chữ) thì giang hai âm vang đồng dạng đứng liền nhau gợi được khoảng rộng, dàn theo chiều ngang, bát ngát bao la hơn là trường. Trường chỉ cho thấy chiều dài, đa nghĩa chữ và hình âm trường thuôn lại trong khi tràng mở ra. Mặt sông dài rộng, nên đầu sóng của sông, vốn thấp như càng thấp thêm, chỉ như gợn nhẹ mặt sông phẳng. Đã rộng lại tĩnh nên gợi buồn, buồn điệp điệp. Chứ sóng mà dào dạt hay réo sôi chắc dẫn tới cảm giác khác. Điệp điệp là trạng thái của gợn sóng trên tràng giang và cũng là của gợn buồn trong lòng người. Câu vào này buồn thật. Nhưng câu thứ hai: “Con thuyền xuôi mái nước song song" có người cũng cho là câu thơ buồn, buồn lắm, lấy lí rằng: song song là chẳng bao giờ gặp nhau, là không gắn bó gì với nhau. Đấy là vận dụng định lý đường song song trong hình học sơ cấp vào hình tượng văn chương. E khó thuyết phục. Thuyền nước trong câu thơ này là đang gắn bó, thậm chí hài hoà xuôi chèo mát mái. Câu thơ này không buồn. Hơn nữa, vui. Đang vui. (Chữ nước song song chỉ là một dụng ý để đối với buồn điệp điệp). Có đang vui mới dẫn đến cái buồn ở câu sau. Mới tạo nên mối tương quan: vui chỉ khoảnh khắc mà buồn thì tất yếu, ấy là lúc thuyền về tới bến, nước vẫn tiếp tục đi, đi một mình, phiêu bạt hai ngả rẽ vô thường nên mới kinh hãi với cái sầu trăm ngả. Hình ảnh sông nước đến đây đã nhập vào thân phận con người. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả. Một chữ lại (trạng từ), lại sầu… cho thấy cách nhìn đời hồi ấy của Huy Cận khá giống Xuân Diệu (hoa nở để mà tàn – Trăng trong để mà khuyết – Bèo hợp để chia tan – Người gần để li biệt). Thuyền và nước song song xuôi mái chỉ khoảnh khắc rồi lẻ loi với bao nhiêu ngã ba sông nước, sầu trăm ngả. Từ hình ảnh trăm ngả dẫn đến câu cuối đoạn như mội tổng kết:
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Trên sông Hồng, nhất là mùa lũ có thể thấy cả cây trôi, thân gỗ trôi, vật vã nổi chìm trong sóng đục phù sa. Cảnh gợi tang thương. Nhưng không phải mạd cảm xúc Huy Cận ở bài này. Ông nói ông phải lựa chọn hình ảnh sao cho ra cai thân phận nổi nênh của kiếp người. Chọn củi hơn là gỗ, chọn một cành không hơn là những cây tươi. Củi một cành mà lạc mấy dòng thì đắt quá, chưa kể nó còn ứng với sầu trăm ngả ở ưên.
Đoạn một là nhìn vào mặt sông mà tả. Chi tiết tung hứng, ngôn ngữ đăng đổi và ngay trung tâm của chủ đề. Đoạn hai nhìn ra xa xung quanh: cồn nhỏ, làng xa, trời sâu, bến rộng… không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Thưa vắng và yên tịnh. Chỉ một âm thanh xa, vọng tự đâu không rõ, mơ hồ như nghe trong hoài niệm một phiên chợ quê lúc vãn người. Âm thanh mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang dãn dần ra theo nắng, theo trời: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Sâu chứ không cao là một sáng tạo, gây ấn tượng. Chiều năm ngang thì “ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"… Không màu sắc, không âm thanh, không hoạt động. Tất cả bất động, lặng đi, ngấm vào nỗi cô liêu.
Cõi rộng không giới hạn, tả dễ miên man. Huy Cận tỉnh táo chuyển lại ánh về mặt sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Đẩy mức vắng lặng tới chỗ bặt dấu người. Hai đoạn trên còn có thuyền, có chợ. Giờ đây, trên sông chỉ còn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Không đò ngang, không cầu bắc, không thấy một công trình nào mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Buồn lan theo cảnh. Buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Rồi lại dựng lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc". Trút qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng mới trội lên nỗi nhớ quê, lòng quê. Tình thế trôi dạt nổi nênh của ngoại cảnh làm con người ngậm ngùi thân phận, thèm tình cảm ấm áp gia đình quần tụ. Bài thơ khép lại trong nỗi nhớ nhà. Tính lôgíc trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này ".
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm 3
Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng,triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Tràng Giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ
Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Củi mội cành khô lạc mấy dòng
Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh "sóng gợn" gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nổi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. Con sóng ở giữa một dòng sông dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống , trời lên sâu chót vót
Sông dài , trời rộng bến cô liêu
Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió , làng , chợ , bến" để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vậy trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được:
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài , trời rộng bến cô liêu
Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướngnhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ông tích tụ như núi.cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả đã dùng tự láy "dợn dợn" để diễn tã những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi.
Bài Tràng Giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam.
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm 4
Huy Cận (1919 – 2005) cũng như nhiều thanh niên thời đó nhận thức được cuộc đời sống tù túng, tẻ nhạt, quẩn quanh nên thường hay có nỗi buồn cô đơn. Bài thơ Tràng Giang được trích trong tập thơ Lửa Thiêng và được xem là một bản ngậm ngùi dài. Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939 và cảm hứng sáng tác được khơi gợi từ hình ảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, bốn bề bao la vắng lặng.
Khi cảm thụ bài thơ này các em lưu ý từ ngoại ảnh (những điều tác giả miêu tả) mà cảm nhận tâm cảnh (nỗi lòng người trong cảnh).
Khổ 1:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy giòng.
– Hình ảnh quan sát được trên dòng sông rất chân thực nhưng đầy sức gợi.
+ Sóng gợn tràng giang thật nhẹ nhàng, lan tỏa đến vô cùng – gợi nỗi buồn mênh mang (buồn điệp điệp)
+ Con thuyền buông xuôi mái chèo một cách thủ động, mặc cho dòng nước đẩy đưa gợi sự lênh đênh. So với sông nước tràng gian nó cũng hết sức lẻ loi, bé nhỏ.
+ Hình ảnh “nước song song” “thuyền về nước lại” không hứa hẹn về sự hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia lìa, xa cách.
+ Đặc biệt gợi cảm là câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Hoàn toàn là tả thực, không sa vào ước lệ sáo mòn. Một cành khô nhỏ bé, mỏng manh, lạc loài giữa mênh mông sóng nước biết trôi dạt về đâu. Người trong cảnh không thể không chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình: một cá thể nhỏ nhoi, bơ vơ trôi dạt giữa dòng đời.
+ Chú ý khai thác nghệ thuật của khổ thơ: Phép đối (buồn điệp điệp – nước song song; sầu trăm ngả – lạc mấy dòng); từ láy âm (điệp điệp, song song); tương phản giữa cá thể và vũ trụ (một cành / mấy dòng).
– > Khổ thơ gợi nỗi buồn về sự chia li, tách biệt thiếu giao cảm giữa các cá thể với nhau, đặc biệt là nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định giữa cuộc đời.
Khổ 2:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
– Hai câu đầu làm nổi bật sự đìu hiu, vắng lặng của cảnh chiều. Đứng trong cảnh không gian đó, con người lại càng cô đơn, càng khát khao được nghe những tiếng vọng thân thiết của cuộc đời (nghê thuật dùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” vừa có giá trị tạo hình vừa có khả năng biểu đạt tâm trạng sâu sắc: gợi lên được sự buồn bã, quạng vắng, cô đơn…. Nhà thơ tìm kiếm âm thanh cuộc sống của con người (đâu tiếng …. Chợ chiều) nhưng đồng thời phụ định ngay trong cách dùng từ “đâu” (không có). Chợ ở một làng xa, lại là chợ chiều, mà chợ đã vãn thì làm sao còn tiếng. Tất cả đều vắng lặng cô tích. Những từ: chiều, xa, vãn, góp phần triệt tiêu âm thanh, triệt tiêu điều tác giả khát khao tìm kiếm).
– Hai câu cuối khổ thơ, không gian được mở rộng ra nhiều chiều: cao, sâu, rộng, dài. Trong vụ trũ vô cùng, thăm thẳm ấy không chỉ cảnh vắng, cô lieu mà lòng người cũng như rợn ngợp, bởi sự bé nhỏ, lạc loài của cá thể trước cái mênh mông của đất trời. (Hàng loạt từ mở không gian ra nhiều hướng: xuống, lên, sâu chót vót, dài, rộng). Các kết hợp từ rất độc đáo “sâu chót vót” vừa gợi được độ cao của bầu trời vừa gợi được chiều sâu thăm thẳm của vũ trụ. Cách ngắt nhịp thơ có hiệu quả diễn ý: “Sông dài, trời rộng, bến cô lieu”, tô đậm thêm tính chất phân li của các sự vật).
Khổ 3:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Tiếp tục khắc sâu, tô đậm mạch cảm xúc đã thể hiện ở hai khổ đầu.
– Cái hiện hữu trước mắt vẫn là những hình ảnh gợi sự lênh đênh, vô định (bèo dạt về đâu) và tĩnh vắng, cô liêu (bờ xanh tiếp bãi vàng).
Chú ý khai thác hiệu quả nghệ thuật: từ ngữ gợi sự liên tiếp, nối tiếp của hình ảnh buồn (hàng nối hàng; bờ…tiếp…bãi…); Đạo ngữ (lặng lẽ).
– Hình ảnh mà thi sĩ khát khao tìm kiếm là “Chuyến đò ngang”, là “cây cầu” nhưng sự phụ định đãn nằm ngay trong điệp từ “không”. Cảm thức về sự cô đơn lạc loài trước cảnh sông dài trời rộng đã khiến nhà thơ mong được đón nhận tiếng nói của con người (Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều), mong được nhìn thấy sự giao lưu, gần gũi giữa con người với con người nhưng tất cả vẫn là sự cách ngăn (Hình ảnh con đò, chiếc cầu tượng trưng cho sự giao lưu đôi bờ nhưng không có). Nhà thơ không chỉ buồn khi đối diện với vụ trũ bao la, mà còn buồn về cuộc đời, về nhân thế.
Khổ 4.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
– Khổ thơ này mang màu sắc. Đường thi khá rõ từ hình ảnh ước lệ (cánh chim hướng về núi chỉ cảnh chiều tối) đến cách dùng một số thi liệu thơ Đường (Hình ảnh “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” lấy ý từ câu thơ của Đỗ Phủ trong bài Thu hứng “Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm – Mặt đất mây đùn cửa ải xa” đều nhằm chỉ sự hùng vĩ của thiên nhiên. Tuy nhiên câu thơ của Huy Cận miêu tả thiên nhiên lấp lánh, tráng lệ mang nét độc đáo riêng). Hoặc hai câu thơ cuối phảng phất ý vị thơ Thôi Hiệu “Quê Hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” – Nêu cái buồn của Thôi Hiệu bắt nguồn trực tiếp từ ngoại cảnh thì nỗi sầu nhớ của Huy Cận có căn nguyên từ cõi lòng).
– Hình thức ngôn ngữ mang màu sắc cổ điển nhưng cảm xúc chứa đựng trong lớp ngôn từ đó lại mang tình hiện đại: cái tôi bơ vơ, cố đơn, rợn ngợp trước cuộc đời. Hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ” gợi cảm giác chấp chới, rợn ngợp. Nỗi nhớ nhà “dợn dợn” trong lòng. Đó chính là nỗi khát khao tìm một chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn trống vắng của tác giả, chứ không phải là nỗi nhớ nhà thông thường của một người xa quê.
Bài thơ Tràng giang gợi lên nỗi bơ vơ, buồn bả của con người trước không gian mênh mông, vô biển và nỗi khát khao giao cảm hòa hợp giữa người với người trong tình đất nước.
Từ khóa tìm kiếm
- cảm nhận bài thơ tràng giang
- bài học sinh cảm nhận trang giang làm rõ thơ huy cận giàu triết lí suy tuongw
- cảm nhận về bài thơ tràng giang
- cảm nhận khổ thơ đầu bài tràng giang
- cảm nhận của em về tràng giang
- cam nhan cua em ve bai tho Trang Giang Cua nha tho Huy Can
- cảm nhan cua e về bài thơ tràng giang
- cam nhan cua anh chi ve bai tho trang giang
- cam nhan cua ac ve doan 4 trong bai tho trang giang
- nhắc tới Huy cận chúng ta không thể bỏ qua được một nhà thơ với những sáng tác mang cảm hứng buồn trước khi bước vào phong trào thơ mới