24/05/2018, 19:45

Các phương pháp và kỹ thuật đánh giá

Quan sát, trong giáo dục học, được hiểu là phương pháp tri giác có mục đích một hiện tượng sư phạm nào đó, để thu lượm những số liệu, tài liệu, sự kiện cụ thể, đặc trưng cho quá trình diễn biến của hiện tượng. Đây là một phương pháp ...

Quan sát, trong giáo dục học, được hiểu là phương pháp tri giác có mục đích một hiện tượng sư phạm nào đó, để thu lượm những số liệu, tài liệu, sự kiện cụ thể, đặc trưng cho quá trình diễn biến của hiện tượng.

Đây là một phương pháp được sử dụng rộng rãi, có thể tiến hành trong lớp hoặc ngoài lớp thuận lợi cho việc thu thập thông tin để đánh giá về thái độ về giá trị của học sinh.

Để giúp cho việc quan sát có hệ thống, có thể dùng các kỹ thuật sau để ghi chép, thu thập những biểu hiện của học sinh trong quá trình giáo dục:

  • Ghi chép chuyện vặt.
  • Phiếu kiểm kê.

Ghi chép chuyện vặt

Trong quá trình quan sát học sinh, giáo viên có thể ghi lại những chuyện vặt bất chợt gặp phải, nó phản ánh những nét độc đáo về tính cách thái độ , hành vi của học sinh; những tình huống, những sự cố trong hoạt động dạy học và giáo dục.

Việc ghi chép chuyện vặt thích hợp với việc đánh giá các em học sinh nhỏ tuổi, những học sinh có nhu cầu đặc biệt, những hứng thú…

Trong quá trình quan sát, người giáo viên có thể dành cho mỗi em học sinh (đối tượng quan sát) một tờ phiếu hoặc vài trang sổ tay để lần lượt ghi vào những điều cần thiết đã quan sát được.

Ví dụ: Phiếu ghi chuyện vặt.

  • Tên học sinh :
  • Lớp học :
  • Trọng tâm cần quan sát : Thái độ học tập môn học
NGÀY SỰ KIỆN
15.10 Trong tiết học, thấy An rất tích cực hào hứng, tích cực phát biểu ý kiến…
20.11 An chuẩn bị bài chu đáo, sưu tầm tranh ảnh minh họa, đọc thêm tài liệu…

Sau một thời gian ghi chép, giáo viên có thể điểm lại các phiếu, có nhận xét và đưa ra các giải pháp giúp đỡ các em cho phù hợp.

Phiếu kiểm kê.

Trong quá trình quan sát, để nắm được mức độ thành thạo của học sinh về một kỹ năng nào đấy trong học tập, người giáo viên sử dụng phương pháp dùng phiếu kiểm kê.

Ví dụ : Để biết đuợc học sinh có kỹ năng sử dụng kính hiển vi không, ta có thể lập phiếu kiểm kê như sau:

  • Phiếu kiểm kê : Kỹ năng sử dụng kính hiển vi của học sinh lớp…
  • Ngày tiến hành ………
TT HỌ TÊN HỌC SINH LÊN TIÊU BẢN ĐIỀU CHỈNH ÁNH SÁNG ĐIỀU CHỈNH VẬT KÍN ĐIỀU CHỈNH ỐC VỊ CẤP SỬ DỤNG MẮT TRÁI
1 Nguyễn Văn An
2 Đỗ Công Duy

Đánh giá chung : ….

Điểm cần lưu ý : ….

Thang xếp loại

Là một phiếu kiểm kê nhưng có yêu cầu cao hơn, điều này được thể hiện ở chỗ học sinh được xếp hạng theo thang 3 hoặc 5 bậc hoặc theo thứ tự A, B, C, D, E.

Ví dụ: Thang xếp loại học sinh.

Nội dung: Kĩ năng thảo luận nhóm.

Số học sinh: ….

Lớp học: ….

Ngày tiến hành: ….

TT HỌ TÊN HỌC SINH BÁM SÁT YÊU CẦU DIỄN ĐẠT BẰNG LỜI TRANH LUẬN VỚI BẠN ĐỀ XUẤT KẾT LUẬN GHI CHÚ
1 Nguyễn Văn An 3 3 2 2
2 Đỗ Công Duy 3 3 3 3
3 Lê Thị Huyền 1 1 1 1
4 Phạm Thanh Thúy 2 1 2 1

Chú thích :

 Khá : 3

 Trung bình : 2

 Yếu :1

Đánh giá chung toàn lớp (hoặc nhóm học sinh)

Chú ý:

 Tùy theo yêu cầu đánh giá mà thang xếp hạng có nhiều bậc hay ít bậc.

 Xác định rõ tiêu chuẩn của mỗi bậc để việc xếp hạng được chính xác

Trong quá trình dạy học, người giáo viên sử dụng các câu hỏi nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.

Để giúp người giáo viên có kỹ thuật xây dựng và sử dụng câu hỏi, cần chú ý một điểm sau:

Kỹ thuật đặt câu hỏi

Để xây dựng các câu hỏi, người giáo viên cần tuân theo các yêu cầu sau:

  • Xác định mục đích, yêu cầu, nội dung của việc kiểm tra đánh giá để xây dựng một hệ thống các câu hỏi chính và câu hỏi phụ có tính chất gợi ý.
  • Đặt câu hỏi với nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu thốâng nhất, sát trình độ học sinh… với hình thức gọn gàng, sáng sủa.
  • Những câu hỏi do giáo viên xây dựng phải có tác dụng tích cực, kích thích tính tích cực, độc lập tư duy, phát triển hứng thú nhận thức cho học sinh.
  • Tránh đặt những câu hỏi chỉ cần trả lời “có” hoặc “không” và những câu hỏi đánh lừa học sinh.

Các loại câu hỏi

Trong thực tiển dạy học, các giáo viên thường xây dựng các loại câu hỏi sau đây:

  • Những câu hỏi đòi hỏi học sinh phải giải thích các hiện tượng mới.
  • Những câu hỏi đòi hỏi học sinh phải so sánh các sự vật hiện tượng.
  • Những câu hỏi đòi hỏi học sinh phải hệ thống hóa, khái quát tri thức đã tiếp thu được.
  • Những câu hỏi đòi hỏi học sinh phải chứng minh các sự vật, hiện tượng.
  • Những câu hỏi đòi hỏi học sinh phải giải quyết những mâu thuẫn giữa những sự vật, hiện tượng.
  • Những câu hỏi đòi hỏi học sinh phải vận dụng những tri thức đã học để giải quyết những vấn đề thực tế.
  • Những câu hỏi có hình thức khác nhau song cùng hỏi một nội dung.

Trong quá trình dạy học, người giáo viên có thể đưa ra các bài tập để kiểm tra, đánh giá việc học tập của các em học sinh.

Bài tập, theo Từ điển Tiếng Việt 1997 (trang 25), được hiểu là: Bài ra cho học sinh làm để tập vận dụng những điều đã học

Như vậy, bài tập nhằm mục đích giúp học sinh tập vận dụng tri thức. Nhưng không chỉ có vậy, bài tập còn giúp học sinh:

  • Củng cố những tri thức đã tiếp thu trên lớp
  • Mở rộng, đào sâu tri thức
  • Phát triển óc thông minh, sáng tạo

Các loại bài tập

Trong quá trình dạy học, người giáo viên sử dụng nhiều loại bài tập tùy theo cách phân loại. Có thể tham khảo mấy cách phân loại sau đây:

a. Dựa vào mục đích của bài tập

Dựa vào mục đích của bài tập đề ra, người ta có các loại bài tập sau:

  • Bài tập nhằm củng cố trí thức đã học.
  • Bài tập nhằm vận dụng tri thức vào thực tế, tình huống nhất định.
  • Bài tập nhằm hệ thống hóa, khái quát hóa những tri thức đã học.
  • Bài tập nhằm phát huy trí thông minh, sáng tạo của học sinh.

b. Dựa vào địa điểm thực hiện bài tập

Bài tập mà học sinh thực hiện - Đó là một căn cứ để phân loại bài tập. Nếu dựa vào căn cứ này thì bài tập có hai loại:

  • Bài tập trên lớp

Trong dạy học, người giáo viên có thể ra cho học sinh những bài tập làm ngay tại lớp ở bước củng cố tiết học. Qua đó giáo viên nhanh chóng nắm được kết quả việc nắm vững tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo mới thu của học sinh.

Có thể đọc đề bài cho các em chép vào tập vở, cũng có thể giáo viên chép bài tập lên bảng và yêu cầu học sinh làm bài tại chỗ. Giáo viên là người theo dõi tình hình làm bài, sau đó chỉ định một vài học sinh lên bảng trình bày lời giải. Những học sinh khác theo dõi bổ sung. Sau đó giáo viên sửa chữa, từng em đối chiếu với lời giải của mình.

Cũng có thể học sinh trao đổi tập cho nhau để giúp nhau kiểm tra kết quả.

  • Bài tập ở nhà

Mục đích của việc ra bài về nhà cho học sinh là giúp giáo viên nhanh chóng nắm được kết quả học tập của học sinh.

Bài tập về nhà cần được sửa chữa tại lớp vào đầøu tiết học sau hoặc trong tiết sửa bài tập.

Giáo viên có thể chọn một số bài vở của học sinh để kiểm tra và chấm điểm.

Cần phát triển kịp thời những thiếu sót của học sinh để bổ sung và có kế hoạch giúp đỡ riêng đối với những em yếu kém để các em thuận lợi trong việc tiếp thu những bài học tiếp theo.

Bài tập phát triển óc tìm tòi, sáng tạo

Trong số các bài tập giáo viên ra cho học sinh giải, cần lưu ý phải có những bài tập nhằm phát triển óc tìm tòi, sáng tạo của học sinh

Để phát triển tư duy tích cực, độc lập, sáng tạo cho học sinh, có thể sử dụng một số bài tập sau:

a. Những bài toán không có câu hỏi:

Trong những bài toán này, người ta cố ý không nêu ra câu hỏi, những nó được suy ra một cách lôgíc từ những quan hệ toán học đã cho. Học sinh luyện tập hiểu lôgíc của những mối quan hệ và phụ thuộc đó. Bài toán sẽ được giải sau khi học sinh phát biểu được câu hỏi.

Lưu ý: Trong dấu ngoặc là một trong những câu hỏi mà học sinh sẽ phát biểu sau khi phân tích những quan hệ đã cho trong bài toán.

Ví dụ:

Trên những quãng đường dài 155 mét, người ta đặt những ống nước có chiều dài 8m và 5m. (Hỏi người ta đã đặt mỗi loại bao nhiêu ống dẫn nước trên đoạn đường đó? ).

b. Bài toán thiếu dữ kiện

Trong những bài toán này, thiếu một số dữ kiện, vì thế không thể trả lời chính xác câu hỏi đặt ra được. Học sinh phải phân tích bài toán và chứng minh tại sao không thể trả lời chính xác câu hỏi của bài toán này được. Cần phải thêm những gì vào các điều kiện của bài toán để giải được nó.

Người ta hỏi học sinh:

  • Tại sao không thể trả lời chính xác được câu hỏi của bài toán?
  • Còn thiếu cái gì?
  • Phải thêm cái gì?
  • Sau khi thêm vào, em hãy giải bài toán đó?

Đối với các em khá giỏi, giáo viên có thể đặt thêm câu hỏi:

  • Liệu có thể khai thác được gì từ những dữ kiện chưa đầy đủ này?
  • Có thể rút ra kết luận gì từ sự phân tích những dữ kiện đã cho?

Ví dụ:

+ Tính chiều dài của một thửa ruộng hình chữ nhật có diện tích là 3600m2? (Phải biết độ lớn của một cạnh [Chiều rộng] hay tỉ lệ độ lớn của các cạnh)

+ Một bình đựng mật ong nặng 500gam. Cũng bình đó đựng dầu hỏa nặng 350gam. Hỏi bình rỗng nặng bao nhiêu gam? (Cần biết tỉ số giữa trọng lượng của mật ong và trọng của dầu hỏa, chẳng hạn dầu hỏa nhẹ hơn mật ong hai lần).

c. Bài tập thừa dữ kiện

Trong những bài toán này, người ta cố ý đưa vào những dữ kiện bổ sung, không cần thiết, làm che lấp những chỉ số cần thiết để giải bài toán. Học sinh phải tách ra cái cần thiết và chỉ ra cái thừa.

Ví dụ:

Trong một cửa hàng, người ta cân khoai tây trong 24 sọt, có loại sọt nặng 3kg và sọt nặng 5kg, trong đó số sọït loại thứ nhất nhiều hơn số sọt loại thứ hai. Trọng lượng của tất cả những sọt loại 5kg bằng trọng lượng của tất cả các sọt nặng 3kg. Hỏi mỗi loại có bao nhiêu sọt?

Lưu ý: Những dữ kiện thừa được gạch chân

d. Những bài toán có nhiều cách giải

Loại bài toán có nhiều cách giải nhằm hình thành cho học sinh năng lực di chuyển từ thao tác tư duy trí tuệ này sang thao tác tư duy trí tuệ khác, từ phương thức hành động này sang phương thức hành động khác (rèn luyện tính mềm dẻo của tư duy)

Ví dụ:

  • Tính giá trị biểu thức sau : A = a2 + 2ab + b2 khi a = 17, b = 3
  • Giải phương trình : 1 1 x + = 3  x 3 ???
  • Tính : 1132 - 1122
  • Tính tổng các số nguyên từ 1 đến 100

e. Bài tập có nội dung thay đổi.

Loại bài tập này giúp học sinh hình thành năng lực di chuyển từ thao tác trí tuệ đã được củng cố vững chắc sang thao tác khác.

Ví du: Đối với ô tô hiệu “Môtxcôvic” thì tiêu chuẩn hao tổn xăng trên 100 km về mùa hè là 10 lít, còn về mùa đông là 11 lít. Hỏi sự hao tổn xăng về mùa đông lớn hơn mùa hè là bao nhiêu phần trăm?

(Phương án 2 : Tiêu chuẩn hao xăng mùa hè nhỏ hơn tiêu chuẩn hao xăng mùa đông là bao nhiêu % ? )

f. Bài toán chứng minh.

Loại bài tập này giúp học sinh hình thành năng lực suy luận lôgíc và năng lực biện luận.

Ví dụ :

  • Chứng minh rằng, tổng của ba số nguyên liên tiếp bất kỳ chia hết cho 3.
  • Chứng minh rằng, nếu thêm vào tích của hai số liên tiếp một số bằng số lớn trong hai số đó thì sẽ được bình phương của số lớn.
  • Chứng minh rằng đa thức x2 + x + 1 không âm với mọi giá trị của x.

g. Bài tập suy luận lôgíc, nhanh trí.

Loại bài tập này giúp học sinhphát triển kỹ năng suy luận lôgíc, sự nhanh trí.

Ví dụ :

  • Khi viết tất cả các số từ 1 đến 9999 thì người ta đã viết bao nhiêu lần chữ số một?
  • Tìm số nhỏ nhất mà khi chia cho 3 còn dư 1, khi chia cho 4 còn dư 2, khi chia cho 5 còn 3, khi chia cho 6 còn dư 4 ?
  • Một cụm bèo thả trong một ao lớn. Mỗi ngày diện tích được phủ bèo tăng lên gắp đôi. Đến ngày 30 thì toàn bộ ao được phủ kín bèo. Hỏi đến ngày bao nhiêu thì bèo phủ được một phần tư, một nửa ao ?

Trong quá trình dạy học, người giáo viên, dựa trên mục đích, nội dung, đặc điểm môn học, những điều kiện cho phép mà có thể tạo cơ hội cho các em học sinh :

  • Tường trình bài thực hành, thí nghiệm
  • Biểu diễn một động tác thể dục
  • Trình bày một ca khúc
  • Giới thiệu một bức họa
  • Tóm tắt một tài liệu tham khảo…

Tóm tắt một tài liệu tham khảo

Trong quá trình đọc một tài liệu tham khảo, học sinh cần có thể thực hiện các hình thức ghi chép :

Ghi nhật ký

Là hình thức ghi chép nhằm giúp học sinh tích kũy được những hiểu biết khái quát về các tài liệu đã đọc, hoặc ghi lại những cảm xúc, nhận xét đối với chúng.

Trích ghi

Là hình thức học sinh ghi lại những câu, những đoạn văn cần thiết cho việc học tập về nội dung hay cách diễn đạt

Cần ghi rõ:

  • Địa chỉ tác giả
  • Tên sách, tài liệu
  • Nhà xuất bản
  • Nơi xuất bản
  • Năm xuất bản
  • Trang…

Lập dàn ý, xây dựng đề cương.

Là hình thức giúp cho học sinh phát triển óc khái quát, hệ thống để ghi nhớ, khi cần có thể viết tóm tắt hoặc trình bày lại :

  • Dàn ý: Phản ánh những tiêu đề của các phần, có thể cả ý cơ bản, chủ yếu nhất của từng phần.
  • Xây dựng đề cương: Giống như dàn ý nhưng chi tiết hơn, phản ánh những luận điểm cơ bản…

Ghi tóm tắt:

Hình thức, dựa trên dàn ý, ghi lại những ý cơ bản nhất, chủ yếu nhất phản ánh được nội dung cơ bản của tài liệu dưới dạng ngắn gọn nhất.

Kể lại một đoạn, một phần hay cả cuốn sách

Tường trình bài thí nghiệm, thực hành.

Xem trong phần lý luận dạy học bộ môn hóa, sinh, lý…

Trình bày trước lớp, tổ

Ngay từ những lớp dưới, đặc biệt khi học sinh ở những lớp trên, người giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá bản thân và tham gia đánh giá lẫn nhau.

Làm được điều này sẽ giúp cho các em :

  • Thấy được những mặt mạnh, yếu của mình.
  • Thấy được sự tiến bộ (hay thụt lùi) so với thời gian trước.
  • Nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân đối với việc học tập, rèn luyện, tu dưỡng …

Giáo viên có thể trao cho học sinh phiếu kiểm kê, thang xếp hạng, đáp án, biểu điểm để học sinh tự đánh giá…

Ví dụ:

1. Phiếu học sinh tự đánh giá kỹ năng học tập của bản thân

Mức độ kỹ năng Tốt Khá T.Bình Yếu Kém
1. Chuẩn bị cho bài mới
2. Ghi bài giảng
3. Đọc sách, tài liệu
4. Trả lời trên lớp
5. Nhận xét câu trả lời của bạn….

2. Phiếu đánh giá giờ dạy của giáo viên trong đợt thực tập

Mức độ Kỹ năng Tốt Khá T.Bình Yếu Kém
Cấu trúc bài soạn          
Trình bày bài soạn
Viết bảng
Đặt câu hỏi kiểm tra bài cũ
Dẫn dắt học sinh vào bài mới
Củng cố sơ bộ bài mới …
0