Ý nghĩa của công tác quản lý thu thuế Giá trị gia tăng đối với khu vực kinh tế cá thể
Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội đã được Đại hội lần thứ VI chỉ rõ: “ Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình và các thành ...
Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội đã được Đại hội lần thứ VI chỉ rõ: “ Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình và các thành phần kinh tế khác gồm kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, kinh tế tư bản tư nhân”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII tiếp tục khẳng định “ Thành phần kinh tế chủ yếu trong thời kỳ quá độ ở nước ta là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước”. Trong đó, kinh tế cá thể gồm những đơn vị kinh tế và những hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động chủ yếu.
Hộ kinh tế cá thể kinh doanh cố định là những hộ sản xuất kinh doanh dịch vụ ( những hoạt động kinh doanh mà pháp luật cho phép ) có địa điểm kinh doanh cố định ở một nơi nào đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, kinh tế cá thể phát triển rất nhanh trong cả nước, hoạt động trong mọi ngành nghề sản xuất, giao thông vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ..
Đặc điểm của kinh tế cá thể là tính tư hữu về tư liệu sản xuất người chủ kinh doanh tự quyết định từ quy trình sản xuất kinh doanh đến phân phối tiêu thụ sản phẩm. Do đó hoạt động của kinh tế cá thể mang tính tự chủ cao, tự tìm kiếm nguồn lực, vốn, sức lao động, tự lo về phương án sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Kinh tế cá thể rất linh hoạt, nhạy bén trong kinh doanh, tuy nhiên nó cũng bộc lộ nhiều hạn chế gây lộn xộn cho thị trường như: Kinh doanh trái phép, làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế nhằm thu lợi nhuận cao.
Nếu như thành phần kinh tế quốc doanh chiếm vai trò chi phối nền kinh tế, thì thành phần kinh tế cá thể nói riêng và thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói chung, tuy chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhưng càng ngày càng phát triển và chiếm một vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân. Khu vực kinh tế này không những chiếm một khối lượng sản phẩn tương đối trong tổng sản phẩm xã hội mà nguồn thu từ thành phần kinh tế này cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong tổng thu Ngân sách Nhà nước. Đồng thời còn thu hút một lực lượng lao động lớn mà thành phần kinh tế quốc doanh chưa đảm bảo hết. Kinh tế cá thể đã tận dụng được lực lượng dồi dào, nhất là lao động có tay nghề cao, đồng thời giải quyết được công ăn việc làm cho nhiều lao động dư thừa, tạo thu nhập và từng bước góp phần nâng cao đời sống của các tầng lớp dân cư. Phương pháp kinh doanh của hộ cá thể cũng rất phong phú và đa dạng, thu hút nhiều thành phần xã hội tham gia, do đó trình độ chuyên môn, tay nghề của họ cũng rất đa dạng.
ở nước ta hơn 10 năm mở cửa phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã khẳng định được vai trò của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói chung và kinh tế cá thể nói riêng.Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh bổ sung hỗ trợ cho thành phần kinh tế quốc doanh, nhất là khu vực thành phần kinh tế chưa thực sự chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Thực tế, trong những năm gần đây số thuế thu được từ kinh tế cá thể có tỷ trọng theo xu hướng tăng lên trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Theo số liệu của Tổng cục Thuế thì:
+ Năm 1992 tổng thu nộp vào ngân sách Nhà nước là 21.023 tỷ thì thuế đạt 16.074 tỷ đồng; trong đó thu từ thành phần kinh tế cá thể là 589 tỷ (chiếm 2,8% trong tổng thu Ngân sách và chiếm 3,7% so với tổng thu thuế).
+ Năm 1993 tổng thu nộp vào ngân sách Nhà nước là 31.840 tỷ thì thuế đạt 25.572 tỷ đồng; trong đó thu từ thành phần kinh tế cá thể là 893 tỷ(chiếm 2,8% trong tổng thu Ngân sách và chiêm 3,5% so với tổng thu thuế).
Tóm lại, hoạt động kinh tế ngoài quốc doanh nói chung và hoạt động kinh tế cá thể nói riêng là hoạt đọng tồn tại khách quan do đòi hỏi của sản xuất và đời sống xã hội. Với quan điểm đó hoạt động của thành phần kinh tế này ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế quốc dân cả trong hiện tại và trong tương lai.
Thuế GTGT là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế nước ta. Việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu sẽ đảm bảo tập trung một số thu lớn cho NSNN. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, do nhu cầu chi tiêu phát triển kinh tế rất lớn nên đã xẩy ra tình trạng thiếu hụt ngân sách. Do vậy chúng ta phải tìm mọi biện pháp để tăng thu ngân sách Nhà nước.Với đường lối đổi mới kinh tế tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển, cùng bình đẳng trước pháp luật thì việc quản lý khu vực kinh tế nào cũng quan trọng. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói chung và kinh tế cá thể nói riêng lại đang phát triển cả về qui mô và số lượng, khả năng thu nhập tăng nhanh thì việc tăng cường quản lý thu thuế khu vực kinh tế này là rất cần thiết.
Mặt khác, đảm bảo sự công bằng xã hội là một yêu cầu đặt ra với chính sách thuế và bản thân với chính sách thuế cũng phải đảm bảo sự công bằng xã hội, vì có công bằng xã hội thì mới có thể động viên số thu lớn nhất trong thời gian ngắn nhất.Tăng cường quản lý thuế Giá trị gia tăng đối với kinh tế cá thể một cách chặt chẽ chính là biện pháp để đảm bảo tính công bằng xã hội, từ đó sẽ giảm tối đa hiện tượng trốn lậu thuế, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
Ngoài ra, thông qua quản lý thuế GTGT đối với hộ kinh doanh cá thể sẽ tạo điều kiện cho Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thông qua:
+ Kiểm tra, kiểm soát các ngành nghề, mặt hàng kinh doanh, từ đó giúp cho các cơ quan quản lý kinh tế có định hướng phát triển ngành nghề phù hợp.
+ Nắm được mức độ tiêu dùng, cơ cấu tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ, từ đó giúp Nhà nước có cơ sở định hướng tiêu dùng trong dân cư phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế cá thể.
Trong những năm qua, việc quản lý thu thuế nói chung và thuế Doanh thu nói riêng đối với khu vực kinh tế cá thể còn rất nhiều thiếu sót, dẫn đến kết quả cuối cùng là thất thu thuế, Nhà nước bị chiếm dụng vốn gây tác động xấu đối với nền kinh tế. Việc áp dụng thuế GTGT thay thế cho thuế Doanh thu sẽ tạo ra khả năng kiểm tra, kiểm soát tốt hơn đối với công tác quản lý. Tuy nhiên sẽ gây khó khăn :
Do thuế GTGT đòi hỏi phải thay đổi một thói quen vốn đã ăn sâu trong cách nghĩ và cách làm của mỗi người. Một trong những thói quen đó là: Mua bán hàng không cần hoá đơn, linh hoạt đến mức tuỳ tiện trong ghi chép chứng từ, sổ kế toán, tính thuế trên tổng doanh thu, không phân biệt giữa doanh nghiệp có nhiều và doanh nghiệp có ít giá trị tăng thêm..mà thay đổi một thói quen thì bao giờ cũng hết sức khó khăn.
Do thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm nên để bảo đảm mức động viên ngang bằng với Thuế doanh thu thì thuế suất thuế GTGT phải cao hơn thuế suất thuế doanh thu. Điều này dễ gây tâm lý cho rằng Nhà nước tăng thuế và dẫn đến tác động làm tăng giá, cho nên cùng với việc giải thích, cần áp dụng biện pháp quản lý chặt chẽ và phải có các biện pháp kinh tế để kiềm chế, ngăn ngừa lợi dụng tăng giá.
Thành phần kinh tế cá thể phần lớn là những hộ quy mô nhỏ, hoạt động phân tán rất khó khăn cho công tác quản lý.
Cũng bởi những lý do đó mà bài viết sau đây xin đề cập đến thực trạng quản lý công tác thu thuế Giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba đình. Từ đó, nghiên cứu tìm ra nguyên nhân của mặt yếu, cũng như ưu điểm của mặt mạnh để đưa ra một số biện pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế Giá trị gia tăng nhằm làm cho bộ máy hành thu của quận ngày càng có hiệu quả hơn.