Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
Đây là lượng đầu vào mà sự biến đổi của nó trực tiếp làm thay đổi sản lượng đầu ra. Có thể biểu hiện mối quan hệ đó bằng hàm số: Y = F(Xi) Trong đó: Y là sản lượng, còn Xi (i = 1, 2,..., n) là các biến số đầu ...
Đây là lượng đầu vào mà sự biến đổi của nó trực tiếp làm thay đổi sản lượng đầu ra. Có thể biểu hiện mối quan hệ đó bằng hàm số:
Y = F(Xi)
Trong đó: Y là sản lượng, còn Xi (i = 1, 2,..., n) là các biến số đầu vào thể hiện các nhân tố đều chịu sự điều tiết của mối quan hệ cung - cầu. Một số nhân tố thì ảnh hưởng tới mức cung, một số nhân tố thì ảnh hưởng tới mức cầu. Sự cân bằng cung - cầu do giá cả thị trường điều tiết sẽ tác động trở lại các nhân tố trên và dẫn tới kết quả của sự sản xuất, đó là sản lượng của nền kinh tế.
Trên sơ đồ 1.2, các biến số đóng vai trò của các nhân tố quyết định tổng mức cung (S), mà sự biến đổi vật chất và giá trị của nó tạo thành tổng sản lượng của nền kinh tế. Đó là các yếu tố sản xuất. Còn các yếu tố quyết định đến tổng mức cầu (D) thực chất đó là các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản lượng thông qua sự cân bằng về cung - cầu (E)
Thực chất của việc tiếp cận đến nguồn gốc của sự tăng trưởng là xác định nhân tố nào là giới hạn của sự tăng trưởng, giới hạn này do cung hay do cầu?
Các nhà kinh tế đặt nền móng cho các học thuyết kinh tế cổ điển nói riêng và kinh tế học nói chung như Adam Smith, Jean Baptiste Say, David Ricardo cho đến Alfred Marshall và ngay cả Karl Marx cũng đều xây dựng các lý thuyết dựa trên quan điểm nghiêng về cung chứ không phải là cầu. Trong một giai đoạn nhất định (ngắn hạn) sự khan hiếm của tài nguyên (nguồn đầu vào) hay sự thiếu cung, luôn luôn là giới hạn của sự tăng trưởng, nhất là khi sức sản xuất còn thấp.
Còn theo trường phái kinh tế học hiện đại, mà xuất phát là Keynes thì mức sản lượng và việc làm là do cầu quyết định. Điều này được lý giải sản lượng của nền kinh tế luôn ở dưới mức tiềm năng, tức là nền kinh tế còn các nguồn lực tiềm năng, công nhân thất nghiệp ở mức tự nhiên, vốn tích luỹ lớn, công suất máy móc chưa tận dụng hết... Đó là do khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, năng suất luôn được nâng cao. Do đó cung không phải là vấn đề giới hạn của sự gia tăng sản lượng, mà ở đây nó phụ thuộc vào cầu.
Mặc dù vậy, trên thực tế vẫn còn những nước quá nghèo, chưa đáp ứng được nhu cầu cơ bản của nhân dân. Song lại có những nước quá giàu đã đáp ứng được nhu cầu của đất nước và đang mở rộng thị trường ra khỏi biên giới để nhằm đẩy mạnh tăng trưởng. Vì vậy mỗi quan điểm trên đều có giá trị trong mỗi hoàn cảnh và điều kiện riêng biệt của mỗi quốc gia .
Xuất phát từ thực tế ở các nước đang phát triển, cung vẫn chưa đáp ứng đựơc cầu, sự gia tăng sản lượng phải bao gồm sự gia tăng trong đầu vào của các yếu tố sản xuất theo quan hệ hàm số giữa sản lượng với vốn, lao động, đất đai và nguyên liệu, kĩ thuật và công nghệ ...
Y = F( K,L,R,T...)
Trong đó:
K: là vốn
L: là lao động
R: là đất đai và tài nguyên
T: là tiến bộ của kĩ thuật và công nghệ
Hàm sản xuất trên nói lên sản lượng tối đa có thể sản xuất được tuỳ thuộc vào sản lượng các yếu tố đầu vào trong điều kiện trình độ kĩ thuật và công nghệ nhất định. Mỗi yếu tố có vai trò nhất định, do trình độ phát triển kinh tế ở mỗi nơi, mỗi lúc quyết định:
Nguồn vốn:
Vốn sản xuất và vốn đầu tư
Vốn sản xuất: Là một bộ phận của tài sản quốc dân bao gồm :
- Tài nguyên thiên nhiên
- Tài sản được sản xuất ra
- Nguồn nhân lực
Tài sản được sản xuất ra bao gồm toàn bộ của cải vật chất được tích luỹ lại qua quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Những tài sản này được chia ra làm 9 loại:
- 1 Công xưởng nhà máy
- 2 Trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng
- 3 Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải
- 4 Cơ sở hạ tầng
- 5 Tồn kho của tất cả hàng hóa
- 6 Các công trình công cộng
- 7 Các công trình kiến trúc quốc gia
- 8 Nhà ở
- 9 Các cơ sở quân sự
Theo chức năng tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế thì 4 nhóm cuối là: các công trình công cộng, các công trình kiến trúc quốc gia, nhà ở, các cơ sở quân sự không tham gia trực tiếp vào các quá trình sản xuất. Nhóm thứ hai bao gồm những tài sản còn lại: công xưởng nhà máy; trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng; máy móc thiết bị - phương tiện vận tải; cơ sở hạ tầng; tồn kho của tất cả hàng hoá là những tài sản được sử dụng làm phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất được gọi là tài sản sản xuất. Trong đó 4 loại tái sản đầu được gọi là vốn cố định, loại thứ 5 là tài sản tồn kho
Vốn đầu tư và hình thức đầu tư
Do đặc điểm của việc sử dụng tài sản là hoạt động trong thời gian dài và bị hao mòn dần, đồng thời do nhu cầu về tài sản ngày càng tăng thêm về tài sản cho nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn tài sản và tăng thêm khối lượng tài sản mới. Quá trình này được tiến hành bằng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư.
Vốn đầu tư được chia làm 2 loại: đầu tư cho tái sản sản xuất và đầu tư cho tài sản phi sản xuất. Vốn đầu tư cho tài sản sản xuất gọi là vốn sản xuất, đó là chi phí để thay thế tài sản cố định bị thải loại để tăng tài sản cố định mới và để tăng tài sản tồn kho.
Như vậy hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hóa vốn thành các tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất. Hoạt động đầu tư thường được tiến hành dưới 2 hình thức:
- Đầu tư trực tiếp :là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động và quản lí đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như phương thức hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư này có thể dưới các hình thức hợp đồng: Hợp đồng, liên doanh công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Đầu tư gián tiếp: Là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu quả cho bản thân người có vốn cũng như xã hội, nhưng ngời có vốn không tham gia trực tiếp quản lý hoạt động đầu tư, dưới hình thức: cổ phiếu, tín phiếu ...
Trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng có 3 phương thức đầu tư mới được áp dụng ở Việt Nam:
+ B - T - O: Phương thức Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh
+ B - O - T: Phương thức Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao
+ B - T: phương thức Xây dựng - Chuyển giao
(B - Build, T - Transfer, O - Operate)
Cả 3 phương thức đầu tư trên là những hợp đồng kí giữa Chính phủ với các nhà đầu tư nhằm áp dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng.
Các nguồn hình thành vốn đầu tư :
Tiết kiệm là nguồn cơ bản hình thành vốn đầu tư
Toàn bộ thu nhập của một nước (GNP) trong quá trình sử dụng được chia làm 3 quĩ lớn: quĩ bù đắp, quĩ tích luỹ vốn và quĩ tiêu dùng. Quĩ bù đắp và quĩ tích luỹ là nguồn để hình thành vốn đầu tư, trong đó quĩ đầu tư là bộ phận quan trọng nhất. Toàn bộ quĩ tích luỹ được hình thành từ các khoản tiết kiệm. Xu hướng chung là khi nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ tích luỹ càng tăng. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước có thu nhập thấp thì qui mô và tỉ lệ tích luỹ đều thấp trong khi yêu cầu của sự phát triển kinh tế ngày càng đòi hỏi nguồn vốn lớn. Điều đó đặt ra cần thiết phải có nguồn hỗ trợ vốn từ nước ngoài :
Nguồn vốn đầu tư trong nước .
* Tiết kiệm của Chính phủ (Sg) : Là tiết kiệm của ngân sách nhà nước (Sgh) và tiết kiệm của các công ty Nhà nước (Sge) .
* Tiết kiệm của các công ty (Se): được xác định trên cơ sở doanh thu và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Tiết kiệm của dân cư (Sh): Phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu hộ gia đình .
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
* Viện trợ phát triển kinh tế (ODA):
ODA được gọi là nguồn vốn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền nhà nước hay địa phương ) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
Nội dung viện trợ ODA bao gồm
- Viện trợ không hoàn lại : Thường chiếm 25% tổng vốn ODA
- Hợp tác kĩ thuật
- Cho vay ưu đãi, bao gồm:
+ Cho vay không lãi
+ Cho vay với lãi suất ưu đãi từ : 0,5 - 5% /năm, trả vồn sau 3 - 10 năm, hoàn vốn trong thời gian 10 - 15 năm.
* Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO):
Viện trợ NGO là các viện trợ không hoàn lại, trước đây viện trợ này chủ yếu là vật chất, đáp ứng những nhu cầu nhân đạo :
Cung cấp thuốc men cho cá trung tâm y tế, chỗ ở và lương thực cho các nạn nhân thiên tai. Hiện nay, loại viện trợ này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các chương trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia thường trú và tiền mặt .
* Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI)
Đây là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài đối với các nước đang phát triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng với phát triển kinh tế. FDI không chỉ cung cấp vốn, mà nó còn thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ kĩ thuật và tìm thị trường tiêu thụ. Mặt khác FDI còn gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Do đó thu hút và khai thác tốt nguồn vốn này sẽ giảm nợ nước ngoài đối với các nước đang phát triển .
Tác động của vốn đến tăng trưởng kinh tế :
Đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đối trong chi tiêu, do đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc làm. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho tổng cầu dịch chuyển: Trên sơ đồ 1.3 mô tả đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD1. Do đó làm cho mức sản lượng cũng biến động từ P0 đến P1.
Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, có nghĩa là có thêm các nhà máy thiết bị, phương tiện vận tải... mới được đưa vào sản xuất làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đối này tác động đến tổng mức cung. Trên sơ đồ 1.4 mô tả vốn sản xuất sẽ làm tăng tổng cung chuyển dịch từ AS0 đến AS1 làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 đến Y1 và mức giá giảm từ P0 đến P1
Sơ đồ 1.3 Sơ đồ 1.4
Tác động vốn đầu tư Tác động của vốn sản xuất
xuất đến tăng trưởng đến tăng trưởng
Lao động với phát triển kinh tế :
Nguồn lao động và các nhân tố ảnh hưởng
Nguồn nhân lực và nguồn lao động
Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo qui định của pháp luật có khả năng tham gia lao động.
Nguồn lao động là một bộ phận của dân số có khả năng lao động bao gồm dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và dân số ngoài độ tuổi lao động đang làm việc thường xuyên trong nền kinh tế quốc dân .
Các yếu tố ảnh hưởng đến số lượng lao động:
* Dân số: Được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: qui mô và cơ cấu của nguồn lao động.
* Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động: Đây là số % của dân số trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nói lên tình trạng số người trong độ tuổi lao động không có nhu cầu làm việc vì đang đi học, đang việc nội trợ hoặc đang trong tình trạng khác .
* Thất nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp:
Thất nghiệp gồm những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm, nó sẽ ảnh hưởng đến số người đang làm việc và ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế .
ở các nước đang phát triển, số ngời làm việc trong khu vực nông thôn hoặc khu vực thành thị không chính thức tuy có việc làm nhưng với năng suất thấp, thời gian làm việc không đầy đủ mà phần lớn mà là chia việc để làm, do vậy để biểu thị loại thất nghiệp này người ta gọi là thất nghiệp trá hình .
* Thời gian lao động : thường được tính bằng số ngày làm việc trong một năm, số giờ làm việc trong tuần hoặc số giờ làm việc trong ngày... Xu hướng chung là thời gian làm việc sẽ giảm đi khi trình độ phát triển kinh tế được nâng cao.
Các yếu tố ảnh hởng đến chất lượng lao động :
Số lượng lao động mới phản ánh được một mặt sự đóng góp của lao động vào phát triển kinh tế. Mặt khác cần được xem xét đến chất lượng lao động, đó là yếu tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Chất lượng được nâng cao nhờ giáo dục, đào tạo, nhờ sức khoẻ của người lao động, nhờ việc bố trí điều kiện lao động tốt hơn.
Vai trò của lao động với việc tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đặc điểm lao động ở các nước đang phát triển .
* Số lượng lao động tăng nhanh.
* Phần lớn lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp.
* Hầu hết người lao động chưa được sử dụng.
Vai trò của lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
* Vai trò hai mặt của lao động trong quá trình phát triển kinh tế: Lao động, một mặt là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số những người được hưởng lợi ích của sự phát triển.
* Lao động với sự tăng trưởng kinh tế:
Một mặt, lao động tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu về số lượng lao động, trình độ chuyên môn, sức khoẻ. Người lao động và sự kết hợp giữa lao động với các yếu tố đầu vào khác để làm tăng mức sản lượng đầu ra
Mặt khác, lao động lại thể hiện tập trung qua mức tiền lương của người lao động. Khi tiền lương của người lao động tăng có nghĩa là chi phí sản xuất tăng phản ánh khả năng sản xuất tăng lên. Đồng thời khi mức tiền tăng làm cho thu nhập có thể sử dụng của người lao động cũng tăng, do đó khả năng chi tiêu của người tiêu dùng cũng tăng lên.
Phân loại tài nguyên
Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố của tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế biến và sử dụng để tạo ra các sản phẩm vật chất .
* Theo công dụng bao gồm:
- Nguồn năng lượng
- Các loại khoáng sản
- Nguồn tài nguyên rừng
- Nguồn đất đai
- Nguồn nước
- Biển và thuỷ sản
- Khí hậu.
* Theo khả năng tái sinh, bao gồm:
- Tài nguyên có khả năng tái sinh thông qua hoạt động của con người: Nguồn tài nguyên rừng và các loại động thực vật.
- Tài nguyên có khả năng tái sinh vô tận trong thiên nhiên: Nguồn năng lượng mặt trời, thuỷ triều, sức gió, thuỷ năng sông ngòi và các nguồn nước, không khí.
- Tài ngyuên không có khả năng tái sinh bao gồm những tài nguyên có qui mô không đổi như đất đai và những tài nguyên khi sử dụng hết dần như các loại khoáng sản, dầu khí.
Vai trò của nguồn tài nguyên thiên nhiên với phát triển kinh tế.
* Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong giai đoạn đầu của các nước đang phát triển thường quan tâm đến việc xuất khẩu sản phẩm thô, đó là những sản phẩm có được từ nguồn tài nguyên chưa qua sơ chế hoặc ở dạng sơ chế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến .
* Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích luỹ vốn và phát triển ổn định. Việc tích luỹ vốn đối với hầu hết các nước đòi hỏi phải trải qua một quá trình lâu dài, liên quan chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên với những nước đã được thiên nhiên ưu đãi nguồn tài nguyên lớn, đa dạng có thể rút ngắn quá trình tích luỹ vốn bằng cách khai thác các sản phẩm thô để bán hoặc để đa dạng hoá nền kinh tế tạo nguồn vốn tích ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Sự giàu có về tài nguyên, là cơ sở để phát triển nhiều ngành kinh tế, ít bị phụ thuộc vào nguồn tài nguyên, vốn là một yếu tố không ổn định trên thị trường thế giới. Điều này cho phép những nước có nguồn tài nguyên phong phú có thể tăng trưởng trong những điều kiện ổn định.Trong khi những nước ít may mắn hơn về tài nguyên phải căng thẳng để điều chỉnh sự lên xuống về giá cả khi phải nhập khẩu các nguồn nguyên liệu.
Khoa học công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
* Cách mạng khoa học kĩ thuật làm thay đổi sâu sắc phương thức lao động của con người.
Loài người đã trải qua hàng nghìn năm trong giai đoạn thứ nhất của nền văn minh, giai đoạn của nền nông nghiệp thủ công với công cụ lao động chủ yếu công cụ thô sơ sử dụng nguồn năng lượng của cơ thể và xúc vật.
Giai đoạn thứ hai của nền văn minh nhân loại là giai đoạn của nền sản xuất cơ khí hoá. Sự phát triển của giai đoạn này gắn liền với những thành tựu khoa học kĩ thuật giúp cho con người khai thác, sử dụng các nguồn năng lượng to lớn trong thiên nhiên vào các hoạt động sản xuất (tự động hoá các vận động cơ giới bằng các nguồn năng lượng). Đó là đặc trưng chủ yếu của công cụ lao động trong giai đoạn văn minh cơ khí hoá
Ngày nay với máy tính điện tử, với các thiết bị điều khiển tự động, với các rô bốt thông minh, loài người đang tiến tới giai đoạn thứ ba của nền văn minh nhân loại, đó là tự động hoá quá trình hoạt động kinh tế với sự giúp đỡ của tin học.
* Cách mạng khoa học kĩ thuật đưa văn minh đến cho cuộc sống con người:
Cách mạng công nghệ không ngừng cải thiện lao động của con người từ lao động chân tay với việc áp dụng ngày càng phổ cập kĩ thuật cơ giới hoá và tự động hoá, đến việc lao động trí óc với việc thâm nhập ngày càng rộng rãi các máy tính và các phương tiện thông tin viễn thông vào mọi lĩnh vực hoạt động xã hội .
Cách mạng công nghệ có ảnh hưởng to lớn đến lối sống con người. Các dụng cụ gia đình dần dần được tự động hoá và điện tử hoá, các dịch vụ gia đình được cung ứng tiện lợi, đã làm giảm nhẹ rất nhiều công việc nội trợ của phụ nữ, để họ giành nhiều thời gian cho công việc khác như giáo dục con cái, học tập, giải trí, sinh hoạt xã hội ...
Với các phương tiện nghe nhìn và thông tin hiện đại đang hình thành một kết cấu hạ tầng văn hoá mới, có thể giao tiếp truyền đạt đi khắp nơi trên thế giới .
* Cách mạng khoa học kĩ thuật tác động đến quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Những vấn đề như : Năng lượng, môi trường, nguyên liệu sản xuất, dân số lương thực thực phẩm, các căn bệnh dịch hiểm nghèo không còn là vấn đề của từng quốc gia mà ngày càng có tính toàn cầu. Để khai thác vũ trụ, nam cực, đại dượng, chế ngự bầu khí quyển... cần phải có sự nỗ lực chung của nhiều nước. Cách mạng khoa học kĩ thuật đã mở ra những khả năng to lớn, để khai thác những khả năng to lớn này các nước cần phải hợp tác với nhau, thể hiện sự gia tăng về phân công lao động, chuyển giao công nghệ quan hệ xuất - nhập khẩu nhằm phát huy thế mạnh của từng nước trên thị trường quốc tế.
* Cách mạng khoa học - kĩ thuật với sự phát triển kinh tế theo chiều sâu:
Trước đây tồn tại một thời gian quan điểm sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tài nguyên, vốn sản xuất và lao động, đó là quan điểm phát triển kinh tế theo chiều rộng .
Từ giữa những năm 70 của thế kỉ XX khi bước vào giai đoạn 2 của cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 2, đứng trước vấn đề môi trường và sự cạn kiệt tài nguyên thì những yếu tố khoa học công nghệ trở nên quan trọng. Đặc điểm của yếu tố này là khó xác định sự đóng góp trực tiếp, nhưng nó thể hiện qua việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố khai thác: tăng lao động, tăng hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao năng suất máy móc, thiết bị . Đây là quan điểm phát triển kinh tế theo chiều sâu. Quan điểm này được thể hiện qua hàm sản xuất của Cobb - Douglas:
Y= T.Lanfa .Kbeta.Rgama.
Trong đó:
Y: Kết quả đầu ra của hoạt động kinh tế (GDP)
anfa, beta, gama : Tỉ lệ đóng góp của các yếu tố đầu vào
T: Khoa học - công nghệ; L: Lao động; K : Vốn; R: Tài nguyên
Hàm sản xuất này phân biệt 2 yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế: Thứ nhất là những yếu tố này tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, bao gồm: K, L, R. Thứ hai là yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của các yếu tố trên, đó là T.
Ngoài các yếu tố sản xuất, ngày nay người ta còn đưa ra một loạt các nhân tố kinh tế khác tác động tới tổng mức cung, như lợi thế do qui mô sản xuất, chất lượng lao động, khả năng tổ chức quản lý.
Khi đề cập đến khái niệm phát triển kinh tế, ngoài những tiêu chuẩn thông thường để đánh giá sự tiến bộ xã hội, về địa vị của mỗi cá nhân, gia đình, tập thể trong cộng đồng xã hội. Điều đó đôi khi trở thành mục tiêu của các quốc gia dân tộc, tạo ra một động lực mạnh hơn cả những thế lực kinh tế thông thường, hoặc chi phối và làm biến dạng những qui luật của các mối quan hệ kinh tế vốn có. Đương nhiên các tác động đó cùng chiều thì tạo ra sự thúc đẩy ,ngược lại thì sẽ cản trở, xung đột.
Các nguồn lực không trực tiếp nhằm mục tiêu kinh tế nhưng gián tiếp có ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gọi là các nhân tố phi kinh tế. Nó có đặc điểm :
- Không thể lượng hoá được các ảnh hưởng của nó.
- Phạm vi ảnh hưởng rộng và phức tạp trong xã hội, không thể đánh giá một cách tách biệt rõ rệt được và không có ranh giới rõ ràng.
Cơ cấu dân tộc.
Đề cập các tộc người khác nhau cùng sống tạo nên một cộng đồng quốc gia. Cơ cấu này có thể chia theo chủng tộc (sắc tộc , bộ tộc) theo khu vực sinh sống lâu đời tạo nên những khác biệt nhất định (miền núi, miền thảo nguyên, miền đồng bằng...) theo tỉ trọng số lượng trong tổng số dân số (thiểu số, đa số ...).
Do điều kiện sống khác nhau đã tạo nên sự khác biệt về trình độ tiến bộ văn minh, về mức sống vật chất và về địa lí, vị trí kinh tế - xã hội trong cộng đồng.
Sự phát triển tổng thể kinh tế có thể đem lại những biến đổi kinh tế có lợi cho dân tộc này nhưng bất lợi cho dân tộc khác. Đó là những nguyên nhân nảy sinh ra xung đột giữa các dân tộc. Do vậy lấy tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, nhưng nó đảm bảo được bản sắc, truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc, khắc phục sự xung đột và sự mất ổn định chung của cộng đồng. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế
Cơ cấu tôn giáo.
Vấn đề tôn giáo đi đôi với vấn đề dân tộc, mỗi tộc người có thể theo một tôn giáo. Trong một quốc gia có thể có nhiều tôn giáo. Mỗi đạo giáo có những quan niệm, triết lí tư tưởng riêng, ăn sâu vào cuộc sống dân tộc từ lâu đời, tạo ra những ý thức tâm lí -xã hội riêng của dân tộc. Nhưng ý thức tôn giáo thường là cố hữu, ít thay đổi theo sự biến đổi của sự phát triển của xã hội. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung thường có ảnh hưởng tới sự tiến bộ xã hội tuỳ theo mức độ, song có thể có sự hoà hợp, nên có chính sách đúng đắn của Chính phủ.
Đặc điểm văn hoá - xã hội.
Đây là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến nhiều quá trình phát triển của đất nước. Nói đến văn hoá dân tộc là một khái niệm rất rộng, bao hàm nhiều mặt từ các tri thức phổ thông, đến các tích luỹ tinh hoa của nhân loại về khoa học nghệ thuật văn học, lối sống và cách ứng xử trong quan hệ giao tiếp, những tập tục tốt đẹp... đã xây dựng được, mà mọi người thừa nhận từ lâu đời. Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển cao của mỗi quốc gia.
Nói chung trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng của lao động, của kĩ thuật và công nghệ, của trình độ quản lí kinh tế - xã hội. Vì thế trình độ văn hoá cao là mục tiêu của sự phát triển. Để phát triển lâu dài và ổn định, đầu tư cho phát triển văn hoá được coi là đầu tư cần thiết nhất và đi trước một bước so với đầu tư sản xuất .
Các thể chế chính trị - kinh tế - xã hội :
Đây cũng là một nhân tố quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó thể hiện như một lực lượng đại diện ý chí của một cộng đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội theo lợi ích của cộng đồng đặt ra. Thể chế được thông qua các mục tiêu phát triển dự kiến, các nguyên tắc quản lí kinh tế -xã hội, các luật pháp, các chế độ, chính sách, các công cụ và bộ máy tổ chức thực hiện
Một thể chế chính trị xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại một thể chế không phù hợp, sẽ gây ra những cản trở, mất ổn định thậm chí đi đến chỗ phá vỡ những quan hệ kinh tế cơ bản làm cho nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hoặc gây ra xung đột chính trị, xã hội. Một thể chế phù hợp với phát triển hiện đại phải thể hiện ở các mặt:
+ Phải có tính năng động, linh hoạt, mềm dẻo luôn thích nghi được với những biến động phức tạp do tình hình thế giới và trong nước khó lường trước.
+ Phải đảm bảo sự ổn định của đất nước, khắc phục được những mâu thuẫn và xung đột có thể xảy ra trong quá trình phát triển .
+ Phải tạo cho nền kinh tế mở một sự hoạt động có hiệu quả, nhằm tranh thủ được vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của thế giới, là cơ sở của sự tăng tốc trong quá trình phát triển.
+ Tạo ra một sự kích thích mạnh mẽ mọi tiềm lực vật chất trong nước hướng vào đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu .
+ Tạo được đội ngũ đông đảo những người có năng lực quản lí , có trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến đủ sức lựa chọn và áp dụng những thành công các kĩ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất trong nước, cũng như đổi mới cơ chế quản lí kinh tế.
Dù quan trọng đến đâu, thể chế cũng chỉ tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng, tức là tạo ra những điều kiện thuận lợi để hướng các hoạt động theo hướng có lợi và hạn chế các mặt bất lợi.
Các mô hình tăng trưởng kinh tế.
Các mô hình tăng trưởng kinh tế là một cách diễn đạt quan điểm cơ bản nhất về sự phát triển kinh tế thông qua các biến số kinh tế và các mối liên hệ giữa chúng. Mục đích của các mô hình kinh tế này là mô tả phương thức vận động của nền kinh tế thông qua môi liên hệ nhân quả giữa các biến số quan trọng trong quá trình phát triển sau khi đã tước bỏ đi sự phức tạp không cần thiết. Những diễn đạt này có thể dưới dạng lời văn, sơ đồ hoặc toán học:
Xuất phát điểm của mô hình :
Tác phẩm "Của cải của các nước" của Adam Smith (1723 - 1790) được coi điểm mốc đánh dấu sự ra đời của khoa học kinh tế và bản thân ông cũng được coi là người sáng lập ra kinh tế học .
Nội dung cơ bản của tác phẩm này là :
- Học thuyết về "Giá trị lao động", ông cho rằng lao động chứ không phải đất đai, tiên bạc là nguồn gốc cơ bản để tạo ra mọi của cải cho đất nước.
- Học thuyết "Bàn tay vô hình ", theo ông người lao động biết rõ nhất cái gì có lợi cho họ, do vậy nếu không bị Chính phủ kiểm soát thì người lao động sẽ được mọi lợi nhuận thúc đẩy sản xuất hàng hoá và dịch vụ cần thiết, thông qua thị trường tự do này lợi ích cá nhân sẽ gắn với lợi ích xã hội.
- Ông đưa ra lí thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc "Ai có gì được nấy", tư bản có vốn được lợi nhuận, địa chủ có đất đai thì được địa tô, công nhân có sức lao động thì sẽ được nhận tiền công. Ông cho rằng nguyên tắc này là phân phối công bằng hợp lí.
Các yếu tố tăng trưởng và mối quan hệ giữa chúng:
Nếu Adam Smith được coi là người sáng lập ra kinh tế học thì David Ricardo (1772 - 1823) được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Theo Ricardo thì nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất và các yếu tố cơ bản nhất là đất đai, lao động và vốn; trong từng ngành và phù hợp với một trình độ kĩ thuật nhất định, các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỉ lệ cố định, không thay đổi. Trong 3 yếu tố kể trên, đất đai là yếu tố quan trọng nhất. Đất đai chính là giới hạn của sự tăng trưởng. Vì khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên những đất đai kém màu mỡ hơn thì giá lương thực thực phẩm sẽ tăng lên. Mà lương thực thực phẩm là bộ phận quan trọng nhất để đảm bảo đời sống của gia đình công nhân. Do đó tiền lương danh nghĩa của công nhân cũng phải tăng theo tương ứng, lợi nhuận của các nhà tư bản có xu hướng giảm xuống. Nếu cứ tiếp tục như vậy thì khi lợi nhuận hạ xuống quá thấp không thể bù đắp được mọi rủi ro trong kinh doanh sẽ làm nền kinh tế trở nên bế tắc. Điều này chỉ có thể giải quyết bằng cách xuất khẩu hàng hoá công nghiệp để mua lương thực, thực phẩm từ nước ngoài rẻ hơn, hoặc phát triển công nghiệp để tác động vào nông nghiệp .
Như vậy lập luận của Ricardo là: Tăng trưởng là kết quả của tích luỹ, tích luỹ là hàm của lợi nhuận, lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí sản xuất lương thực, chi phí này lại phụ thuộc vào đất đai. Do đó đất đai là giới hạn của sự tăng trưởng.
Sơ đồ1.5 : Đường tăng trưởng của Ricardo:
Đất đai là giới hạn của sự tăng trưởng
Quan hệ cung cầu và vai trò của chính sách kinh tế với sự phát triển:
Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng thị trường tự do được một bàn tay vô hình dẫn dắt để gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của xã hội .Thị trường với với sự linh hoạt của giá cả và tiền công có khả năng tự điều tiết những mất cân đối của nền kinh tế để xác lập những cân đối mới, đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ. Đây là quan niệm "cung tạo nên cầu "
Còn các chính sách kinh tế không có tác động quan trọng đối với sự hoạt động của nền kinh tế, đôi khi còn hạn chế khả năng phát triển kinh tế. Đối với những khoản chi tiêu của chính là chi tiêu "không sinh lời ", còn các khoản thu đều làm giảm lợi nhuận, từ đó làm giảm tích luỹ.
Các yếu tố tăng trưởng kinh tế :
Theo K.Marx các yếu tố quá trình tái sản xuất là: đất đai, lao động và tiền vốn, tiến bộ kĩ thuật. Trong đó ông đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư . K.Marx cho rằng sức lao động đối với nhà tư bản là một hàng hoá đặc biệt và được các nhà tư bản mua bán trên thị trờng và được tiêu thụ trong quá trình sản xuất. Mục đích của các nhà tư bản là tăng giá trị thặng dư, cho nên họ tìm mọi cách tăng giờ làm của công nhân, giảm tiền công của công nhân, hoặc nâng cao năng suất lao động bằng cải tiến kĩ thuật. Hai phương pháp trên là giới hạn cho nên để tăng giá trị thặng dư nhà tư bản chủ yếu dựa vào cải tiến kĩ thuật. Vì vậy các nhà tư bản tiết kiệm phần lợi nhuận để tăng thên vốn đầu tư bằng cách chia lợi nhuận làm 2 phần: một phần giành cho tiêu dùng nhà tư bản, một phần để tích luỹ phát triển sản xuất .
Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng.
K.Marx chia nền kinh tế ra làm 2 khu vực: khu vực sản xuất vật chất và khu vực sản xuất phi vật chất. Trong đó chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới sáng tạo ra sản phẩm xã hội, vì vậy tổng sản phẩm xã hội chỉ toàn bộ sản phẩm sản xuất trong một thời gian nhất định, về mặt hiện vật bao gồm: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, về giá trị bao gồm: tư bản bất biến, tư bản khả biến và tư bản thặng dư (C+V+m). Còn thu nhập quốc dân bao gồm tư bản khả biến và giá trị thặng dư (V+m).
Chu kỳ sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế với phát triển:
Marx bác bỏ lí thuyết cổ điển "cung tạo nên cầu" và dự đoán về tình trạng bế tắc của sự tăng trởng do sự hạn chế đất đai gây ra . Theo ông nguyên tắc cơ bản của sự vận động trên và hàng hoá trên thị trường là phải đảm bảo sự thống nhất giữa giá trị và hiện vật . Lưu thông hàng hoá phải đảm bảo sự phù hợp giữa khối lượng hàng hoá mua và bán. Nếu khối lượng cần bán và sức mua không phù hợp sẽ dẫn đến khoảng cách, nếu khoảng cách này lớn sẽ gây khủng hoảng, mà trong xã hội tư bản thường là xảy ra khủng hoảng thừa. Do vậy vai trò đặc biệt của chính sách phát triển kinh tế là nâng cao mức cầu hiện có.
Nội dung cơ bản :
Cuối thế kỉ XIX là thời kì đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học - kĩ thuật, hàng loạt các phát minh và các nguồn tài nguyên được khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất. Điều này đã ảnh hưởng đến trào lưu phát triển kinh tế. Sự phát triển của trào lưu này hình thành một trường phái kinh tế mới, đứng đầu là Alpred Marshall (1842-1924) tác phẩm chính của ông là "Các nguyên lí của kinh tế học" xuất bản 1980.
* Những nội dung mới của mô hình tân cổ điển :
- Bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng, nhất định đòi hỏi những tỉ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng vốn có thể thay thế được công nhân, và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào.
- Tiến bộ khoa học kĩ thuật là yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế .
* Những quan điểm giống cổ điển :
Nền kinh tế có 2 đường tổng cung : AS - LR phản ánh sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, còn AS - SR phản ánh khả năng thực tế. Mặc dù vậy, các nhà kinh tế tân cổ điển vẫn cho rằng nền kinh tế luôn đạt được sự cân bằng ở mức sản lượng tiềm năng ( Xem sơ đồ 1.6)
Cũng giống như các nhà kinh tế cổ điển, các nhà tân kinh tế cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh, khi nền kinh tế có sự biến động thì sự linh hoạt về giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị trí sản lượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động. Họ cho rằng chính sách kinh tế của Chính phủ không thể dựa vào sản lượng, nó chỉ có thể ảnh hưởng đến mức giá của nền kinh tế, do đó vai trò của Chính phủ là mờ nhạt trong phát triển kinh tế.
Hàm sản xuất Cobb - Douglas:
Các nhà kinh tế tân cổ điển cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự gia tăng của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: Vốn, lao động, tài nguyên và khoa học - công nghệ.
Y = F(K, L, R, T)
Trong đó:
Y: Đầu ra (GDP)
K: Vốn sản xuất
L: Số lượng lao động
R: Nguồn tài nguyên
T: Khoa học công nghệ
Hàm Cobb - Douglas có dạng:
Y = T. Kanfa Lbeta Rgama
ở đây anfa, beta, gama là các số luỹ thừa, phản ánh tỉ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào.
Sau khi biến đổi Cobb - Douglas thiết lập đợc mối quan hệ theo tốc độ tăng trởng của các biến số
g = t + anfak + anfal + gamar
Trong đó:
g: tốc độ tăng trưởng của GDP
k, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào
t: Phần còn lại, phản ánh tác động của khoa học - công nghệ.
Sơ đồ 1.6 : Các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng nền kinh tế luôn đạt sản lượng tiềm năng (Y0 = Y*).
Như vậy hàm sản xuất của Cobb - Douglas cho biết 4 yếu tố cơ bản tác động đến tăng trưởng kinh tế và cách thức tác động của 4 yêú tố này là sự khác nhau giữa các yếu tố K, L, R với yếu tố T. Họ cho rằng khoa học công nghệ là quan trọng nhất với sự phát triển kinh tế .
Nội dung cơ bản của mô hình
* Sự cân bằng của nền kinh tế :
* Keynes có thể đạt được và duy trì một sự cân đối ở một mức sản lượng nào đó, dưới mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi người, tại nơi mà những khoản đầu tư mới cho chỉ tiêu cho đầu tư được hình thành từ các khoản tiết kiệm đang được đa vào hệ thống.
Keynes cũng cho rằng có hai con đường tổng cung: AS - LR phản ánh mức sản lượng tiềm năng, mà thông thường sản lượng đạt được ở mức cân bằng nhỏ hơn sản lượng tiềm năng (Y0 < Y*).
* Vai trò của tổng cầu trong việc xác định sản lượng
Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc xác định sản lượng. Theo ông thu nhập của các cá nhân sử dụng để cho tiêu dùng và tích luỹ. Nhưng có xu hướng chung là khi mức thu nhập tăng thì xu hướng tiêu dùng giảm và xu hướng trung bình tăng . Việc xu hướng tiêu dùng giảm làm cho cầu giảm và đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự trì trệ trong hoạt động kinh tế. Vì vậy ông khuyên nên phát triển nhiều hình thức hoạt động kinh tế để nâng cao tổng cầu và việc làm trong xã hội.
*Vai trò của chính sách kinh tế với phát triển
Ông cho rằng Nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng các chính sách kinh tế để làm dịu khủng hoảng và thất nghiệp, đồng thời nâng cao khả năng tiêu dùng của xã hội . Trước hết ông đề nghị sử dụng ngân sách Nhà nớc để kích thích đầu tư thông qua đơn đặt hàng của Nhà nước và trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp. Để kích thích đầu tư có hiệu quả phải giảm lãi suất và tăng lợi nhuận, đồng thời thực hiện lạm phát có mức độ. Ông đánh giá cao vai trò của hệ thống thuế khoá, công trái Nhà nước, qua đó để bổ xung cho ngân sách .Ông tán thành đầu tư cho Chính phủ vào công trình công cộng và các biện pháp khác như một loại bơm trợ lực khi đầu tư tư nhân giảm .
Mô hình Harrod - Dmar :
Nếu gọi đầu ra là Y, tỉ lệ tăng trưởng của đầu ra là g :
g = deltaY/Yt
Nếu gọi s là tỉ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S:
s = St/ Yt
Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết, đầu tư luôn bằng tiết kiệm (St = It).
Đầu tư chính là cơ sở tạo ra vốn sản xuất, do đó It = Kt + n
Nếu gọi k là tỉ số gia tăng giữa vốn và đầu ra, ta sẽ có
k = deltaKt + n / deltaY hay k = It/ deltaY
Do đó ta có: g = s/k
ở đây k = s/g được gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn đầu ra). Hệ số này nói lên rằng : Vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, tiết kiệm của nhân dân và của các công ty là nguồn gốc của đầu tư. Hệ số này cũng phản ánh trình độ kĩ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư .
Mô hình Harrod - Domar sự tăng trưởng là do kết quả của sự tương tác giữa tiết kiệm với đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế .Theo Harrod -Domar chính đầu tư phát sinh ra lợi nhuận và gia tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế .
Dựa vào lí thuyết của Keynes, Chính phủ các nước đã sử dụng chính sách kinh tế của Nhà nước để hạn chế mức độ lạm phát và thất nghiệp, làm tăng mức sản lượng tiềm năng. Nhưng sau một thời gian áp dụng lí thuyết này các nước có xu hướng nhấn mạnh vai trò của chính sách kinh tế, do đó lại hạn chế mức độ tự điều chỉnh của thị trường và xuất hiện những trở ngại lớn cho quá trình tăng trưởng và phát triển. Trong bối cảnh đó một trờng phái kinh tế mới ra đời, các nhà kinh tế của trờng phái này ủng hộ xây dựng nền kinh tế hỗn hợp, trong đó thị trường trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế và nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường. Thực chất nền kinh tế hỗn hợp chính là sự xích lại gần nhau của học thuyết kinh tế tân cổ điển và học thuyết của Keynes, mà đại diện tiêu biểu là P.A Samuelson trong tác phẩm "Kinh tế học". Nội dung cơ bản của thuyết này là :
Sự cân bằng của nền kinh tế :
Kinh tế học hiện đại quan niệm về sự cân bằng kinh tế dựa theo mô hình của Keynes, nghĩa là sự cân bằng kinh tế không nhất thiết phải đạt tới sản lượng tiềm năng, mà thường dưới mức sản lượng tiềm năng, trong điều kiện hoạt động bình thường nền kinh tế vẫn còn thất nghiệp và lạm phát . Nhà nước cần xác định được tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên và mức độ lạm phát có thể chấp nhận được để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, còn các tổ chức kinh doanh sẽ cố gắng sản xuất để đạt được mức sản lượng càng gần mức sản lượng tiềm năng càng tốt .
Các yếu tố tác động đến cân bằng kinh tế
Lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định của mô hình kinh tế tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất. Họ cho rằng tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi yếu tố đầu vào của sản xuất, đó là nguồn lao động (K), tài nguyên thiên nhiên (R), và khoa học công nghệ (T)
Y = F(L,K,R,T)
và thống nhất với việc phân tích của hàm sản xuất Cobb - Douglas về sự tác động của các yếu tố đến sự tăng trưởng :
Y = T. Kanfa.Lbeta.Rgama.
g = t + anfa.k + beta.l + gama.r
Trong đó g: tốc độ tăng trưởng của yếu tố đầu vào
t : Phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ
k, l, r : Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào.
Lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cũng thống nhất với tân cổ điển về mối quan hệ giữa các yếu tố. Các nhà sản xuất, kinh doanh có thể lựa chọn kĩ thuật sử dụng nhiều vốn hoặc kĩ thuật hoặc sử dụng nhiều lao động và do đó lí thuyết này cũng thống nhất với mô hình kinh tế của Harrod - Domar về vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Samuelson coi những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế hiện đại là " Kĩ thuật công nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào sử dụng vốn lớn". Do đó cơ sở để phát huy tác dụng của các yếu tố khác là vốn, nó là cơ sở để tạo thêm việc làm, để có công nghệ tiên tiến. Vì vậy trong tính toán kinh tế ngày nay hệ số ICOR vẫn được coi là cơ sở để xác định tỉ lệ vốn đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
k = It/deltaY = deltaKt + n/deltaY và g = s/k
Trong đó:
k: Hệ số ICOR
s: Tỉ lệ tiết kiệm
g: Tốc độ tăng trưởng
Samuelson cũng đề cập đến các yếu tố tác động đến mức tổng cầu như cách đề cập của Keynes : Y = F(C,G, I, NX)
Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển kinh tế.
Lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cho rằng thị trường là yếu tố cơ bản điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng mức cung và tổng mức cầu tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm tỉ lệ thất nghiệp, mức giá tỉ lệ lạm phát, đó là cơ sở cơ bản để giải quyết ba vấn đề của nền kinh tế .
Mặt khác, vai trò ngày càng tăng lên của Chính phủ trong đời sống kinh tế không chỉ là sự đòi hỏi can thiệp vào những khuyết tật củ thị trường, mà còn vì các mục tiêu xã hội khác .
Theo Samuelson, trong nền kinh tế hỗn hợp hiện đại, Chính phủ có 4 chức năng cơ bản :
- Thiết lập khuôn khổ luật pháp
- Xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô
- Tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện
- 1 Azithromycin
- 2 Mô hình phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
- 3 Hiệu ứng siêu dẫn
- 4 KHÁI NIỆM CHUNG VỀ MÁY ĐIỆN
- 5 Tổng quan về thị trường
- 6 Giới thiệu về mô hình màng tế bào Hodgkin-Huxley
- 7 Những vấn đề lý luận về tiêu thụ
- 8 Các loại bộ nhớ bán dẫn 2
- 9 Cơ cấu xã hội và mức sinh: một dạng phân tích
- 10 Khuyến nông chăn nuôi bò sữa