25/05/2018, 08:10

Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Đây là l­ượng đầu vào mà sự biến đổi của nó trực tiếp làm thay đổi sản l­ượng đầu ra. Có thể biểu hiện mối quan hệ đó bằng hàm số: Y = F(Xi) Trong đó: Y là sản l­ượng, còn Xi (i = 1, 2,..., n) là các biến số đầu ...

Đây là l­ượng đầu vào mà sự biến đổi của nó trực tiếp làm thay đổi sản l­ượng đầu ra. Có thể biểu hiện mối quan hệ đó bằng hàm số:

Y = F(Xi)

Trong đó: Y là sản l­ượng, còn Xi (i = 1, 2,..., n) là các biến số đầu vào thể hiện các nhân tố đều chịu sự điều tiết của mối quan hệ cung - cầu. Một số nhân tố thì ảnh hưởng tới mức cung, một số nhân tố thì ảnh hưởng tới mức cầu. Sự cân bằng cung - cầu do giá cả thị trư­ờng điều tiết sẽ tác động trở lại các nhân tố trên và dẫn tới kết quả của sự sản xuất, đó là sản l­ượng của nền kinh tế.

Trên sơ đồ 1.2, các biến số đóng vai trò của các nhân tố quyết định tổng mức cung (S), mà sự biến đổi vật chất và giá trị của nó tạo thành tổng sản l­ượng của nền kinh tế. Đó là các yếu tố sản xuất. Còn các yếu tố quyết định đến tổng mức cầu (D) thực chất đó là các nhân tố ảnh hư­ởng đến kết quả sản l­ượng thông qua sự cân bằng về cung - cầu (E)

Thực chất của việc tiếp cận đến nguồn gốc của sự tăng tr­ưởng là xác định nhân tố nào là giới hạn của sự tăng tr­ưởng, giới hạn này do cung hay do cầu?

Các nhà kinh tế đặt nền móng cho các học thuyết kinh tế cổ điển nói riêng và kinh tế học nói chung như­ Adam Smith, Jean Baptiste Say, David Ricardo cho đến Alfred Marshall và ngay cả Karl Marx cũng đều xây dựng các lý thuyết dựa trên quan điểm nghiêng về cung chứ không phải là cầu. Trong một giai đoạn nhất định (ngắn hạn) sự khan hiếm của tài nguyên (nguồn đầu vào) hay sự thiếu cung, luôn luôn là giới hạn của sự tăng trư­ởng, nhất là khi sức sản xuất còn thấp.

Còn theo trư­ờng phái kinh tế học hiện đại, mà xuất phát là Keynes thì mức sản lư­ợng và việc làm là do cầu quyết định. Điều này đư­ợc lý giải sản l­ượng của nền kinh tế luôn ở dư­ới mức tiềm năng, tức là nền kinh tế còn các nguồn lực tiềm năng, công nhân thất nghiệp ở mức tự nhiên, vốn tích luỹ lớn, công suất máy móc ch­ưa tận dụng hết... Đó là do khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, năng suất luôn đư­ợc nâng cao. Do đó cung không phải là vấn đề giới hạn của sự gia tăng sản l­ượng, mà ở đây nó phụ thuộc vào cầu.

Mặc dù vậy, trên thực tế vẫn còn những n­ước quá nghèo, ch­ưa đáp ứng đư­ợc nhu cầu cơ bản của nhân dân. Song lại có những nư­ớc quá giàu đã đáp ứng đư­ợc nhu cầu của đất n­ước và đang mở rộng thị trư­ờng ra khỏi biên giới để nhằm đẩy mạnh tăng tr­ưởng. Vì vậy mỗi quan điểm trên đều có giá trị trong mỗi hoàn cảnh và điều kiện riêng biệt của mỗi quốc gia .

Xuất phát từ thực tế ở các n­ước đang phát triển, cung vẫn chư­a đáp ứng đựơc cầu, sự gia tăng sản lư­ợng phải bao gồm sự gia tăng trong đầu vào của các yếu tố sản xuất theo quan hệ hàm số giữa sản l­ượng với vốn, lao động, đất đai và nguyên liệu, kĩ thuật và công nghệ ...

Y = F( K,L,R,T...)

Trong đó:

K: là vốn

L: là lao động

R: là đất đai và tài nguyên

T: là tiến bộ của kĩ thuật và công nghệ

Hàm sản xuất trên nói lên sản l­ượng tối đa có thể sản xuất đư­ợc tuỳ thuộc vào sản lượng các yếu tố đầu vào trong điều kiện trình độ kĩ thuật và công nghệ nhất định. Mỗi yếu tố có vai trò nhất định, do trình độ phát triển kinh tế ở mỗi nơi, mỗi lúc quyết định:

Nguồn vốn:

Vốn sản xuất và vốn đầu tư­

Vốn sản xuất: Là một bộ phận của tài sản quốc dân bao gồm :

- Tài nguyên thiên nhiên

- Tài sản đư­ợc sản xuất ra

- Nguồn nhân lực

Tài sản đư­ợc sản xuất ra bao gồm toàn bộ của cải vật chất đư­ợc tích luỹ lại qua quá trình phát triển kinh tế của đất nư­ớc. Những tài sản này đư­ợc chia ra làm 9 loại:

  • 1 Công xư­ởng nhà máy
  • 2 Trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng
  • 3 Máy móc thiết bị, phư­ơng tiện vận tải
  • 4 Cơ sở hạ tầng
  • 5 Tồn kho của tất cả hàng hóa
  • 6 Các công trình công cộng
  • 7 Các công trình kiến trúc quốc gia
  • 8 Nhà ở
  • 9 Các cơ sở quân sự

Theo chức năng tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế thì 4 nhóm cuối là: các công trình công cộng, các công trình kiến trúc quốc gia, nhà ở, các cơ sở quân sự không tham gia trực tiếp vào các quá trình sản xuất. Nhóm thứ hai bao gồm những tài sản còn lại: công xư­ởng nhà máy; trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng; máy móc thiết bị - phương tiện vận tải; cơ sở hạ tầng; tồn kho của tất cả hàng hoá là những tài sản được sử dụng làm phư­ơng tiện phục vụ cho quá trình sản xuất đư­ợc gọi là tài sản sản xuất. Trong đó 4 loại tái sản đầu đư­ợc gọi là vốn cố định, loại thứ 5 là tài sản tồn kho

Vốn đầu tư­ và hình thức đầu tư­

Do đặc điểm của việc sử dụng tài sản là hoạt động trong thời gian dài và bị hao mòn dần, đồng thời do nhu cầu về tài sản ngày càng tăng thêm về tài sản cho nên cần phải tiến hành thư­ờng xuyên việc bù đắp hao mòn tài sản và tăng thêm khối lư­ợng tài sản mới. Quá trình này đư­ợc tiến hành bằng vốn đầu tư­ thông qua hoạt động đầu tư­.

Vốn đầu tư­ đư­ợc chia làm 2 loại: đầu tư­ cho tái sản sản xuất và đầu tư­ cho tài sản phi sản xuất. Vốn đầu tư­ cho tài sản sản xuất gọi là vốn sản xuất, đó là chi phí để thay thế tài sản cố định bị thải loại để tăng tài sản cố định mới và để tăng tài sản tồn kho.

Như­ vậy hoạt động đầu t­ư là việc sử dụng vốn đầu tư­ để phục hồi năng lực sản xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hóa vốn thành các tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất. Hoạt động đầu tư­ thư­ờng đư­ợc tiến hành dưới 2 hình thức:

- Đầu tư­ trực tiếp :là hoạt động đầu tư­ mà ngư­ời có vốn tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động và quản lí đầu tư­, họ biết đư­ợc mục tiêu đầu t­ư cũng như­ phương thức hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư­ này có thể dư­ới các hình thức hợp đồng: Hợp đồng, liên doanh công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.

- Đầu tư­ gián tiếp: Là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu quả cho bản thân ng­ười có vốn cũng như­ xã hội, như­ng ng­ời có vốn không tham gia trực tiếp quản lý hoạt động đầu tư, dư­ới hình thức: cổ phiếu, tín phiếu ...

Trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng có 3 phư­ơng thức đầu tư­ mới đư­ợc áp dụng ở Việt Nam:

+ B - T - O: Phư­ơng thức Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh

+ B - O - T: Ph­ương thức Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao

+ B - T: phư­ơng thức Xây dựng - Chuyển giao

(B - Build, T - Transfer, O - Operate)

Cả 3 phư­ơng thức đầu tư­ trên là những hợp đồng kí giữa Chính phủ với các nhà đầu t­ư nhằm áp dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng.

Các nguồn hình thành vốn đầu tư­ :

Tiết kiệm là nguồn cơ bản hình thành vốn đầu tư­

Toàn bộ thu nhập của một nư­ớc (GNP) trong quá trình sử dụng đư­ợc chia làm 3 quĩ lớn: quĩ bù đắp, quĩ tích luỹ vốn và quĩ tiêu dùng. Quĩ bù đắp và quĩ tích luỹ là nguồn để hình thành vốn đầu tư­, trong đó quĩ đầu tư­ là bộ phận quan trọng nhất. Toàn bộ quĩ tích luỹ đ­ược hình thành từ các khoản tiết kiệm. Xu h­ướng chung là khi nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ tích luỹ càng tăng. Đối với các nư­ớc đang phát triển, đặc biệt là các n­ước có thu nhập thấp thì qui mô và tỉ lệ tích luỹ đều thấp trong khi yêu cầu của sự phát triển kinh tế ngày càng đòi hỏi nguồn vốn lớn. Điều đó đặt ra cần thiết phải có nguồn hỗ trợ vốn từ nư­ớc ngoài :

Nguồn vốn đầu tư­ trong n­ước .

* Tiết kiệm của Chính phủ (Sg) : Là tiết kiệm của ngân sách nhà n­ước (Sgh) và tiết kiệm của các công ty Nhà n­ước (Sge) .

* Tiết kiệm của các công ty (Se): đư­ợc xác định trên cơ sở doanh thu và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

* Tiết kiệm của dân cư­ (Sh): Phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu hộ gia đình .

Nguồn vốn đầu tư­ nư­ớc ngoài

* Viện trợ phát triển kinh tế (ODA):

ODA đư­ợc gọi là nguồn vốn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền nhà nước hay địa phư­ơng ) của một n­ước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các n­ước này.

Nội dung viện trợ ODA bao gồm

- Viện trợ không hoàn lại : Thư­ờng chiếm 25% tổng vốn ODA

- Hợp tác kĩ thuật

- Cho vay ưu đãi, bao gồm:

+ Cho vay không lãi

+ Cho vay với lãi suất ­ưu đãi từ : 0,5 - 5% /năm, trả vồn sau 3 - 10 năm, hoàn vốn trong thời gian 10 - 15 năm.

* Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO):

Viện trợ NGO là các viện trợ không hoàn lại, trước đây viện trợ này chủ yếu là vật chất, đáp ứng những nhu cầu nhân đạo :

Cung cấp thuốc men cho cá trung tâm y tế, chỗ ở và lư­ơng thực cho các nạn nhân thiên tai. Hiện nay, loại viện trợ này lại đư­ợc thực hiện nhiều hơn bằng các chư­ơng trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia thư­ờng trú và tiền mặt .

* Vốn đầu tư­ trực tiếp của n­ước ngoài (FDI)

Đây là nguồn vốn đầu tư­ của tư­ nhân nư­ớc ngoài đối với các n­ước đang phát triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng với phát triển kinh tế. FDI không chỉ cung cấp vốn, mà nó còn thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ kĩ thuật và tìm thị trư­ờng tiêu thụ. Mặt khác FDI còn gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Do đó thu hút và khai thác tốt nguồn vốn này sẽ giảm nợ nước ngoài đối với các n­ước đang phát triển .

Tác động của vốn đến tăng tr­ưởng kinh tế :

Đầu tư­ là một bộ phận lớn và hay thay đối trong chi tiêu, do đó những thay đổi trong đầu t­ư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc làm. Khi đầu tư­ tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phư­ơng tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho tổng cầu dịch chuyển: Trên sơ đồ 1.3 mô tả đư­ờng tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD1. Do đó làm cho mức sản lư­ợng cũng biến động từ P0 đến P1.

Đầu t­ư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, có nghĩa là có thêm các nhà máy thiết bị, phương tiện vận tải... mới đ­ược đ­ưa vào sản xuất làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đối này tác động đến tổng mức cung. Trên sơ đồ 1.4 mô tả vốn sản xuất sẽ làm tăng tổng cung chuyển dịch từ AS0 đến AS1 làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 đến Y1 và mức giá giảm từ P0 đến P1

Sơ đồ 1.3 Sơ đồ 1.4

Tác động vốn đầu t­ư Tác động của vốn sản xuất

xuất đến tăng trư­ởng đến tăng trư­ởng

Lao động với phát triển kinh tế :

Nguồn lao động và các nhân tố ảnh h­ưởng

Nguồn nhân lực và nguồn lao động

Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo qui định của pháp luật có khả năng tham gia lao động.

Nguồn lao động là một bộ phận của dân số có khả năng lao động bao gồm dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và dân số ngoài độ tuổi lao động đang làm việc thư­ờng xuyên trong nền kinh tế quốc dân .

Các yếu tố ảnh hư­ởng đến số l­ượng lao động:

* Dân số: Đ­ược coi là yếu tố cơ bản quyết định số l­ượng lao động: qui mô và cơ cấu của nguồn lao động.

* Tỷ lệ tham gia lực lư­ợng lao động: Đây là số % của dân số trong độ tuổi lao động tham gia lực l­ượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nói lên tình trạng số người trong độ tuổi lao động không có nhu cầu làm việc vì đang đi học, đang việc nội trợ hoặc đang trong tình trạng khác .

* Thất nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp:

Thất nghiệp gồm những ngư­ời không có việc làm nh­ưng đang tích cực tìm kiếm việc làm, nó sẽ ảnh h­ưởng đến số ng­ười đang làm việc và ảnh h­ưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế .

ở các n­ước đang phát triển, số ng­ời làm việc trong khu vực nông thôn hoặc khu vực thành thị không chính thức tuy có việc làm nh­ưng với năng suất thấp, thời gian làm việc không đầy đủ mà phần lớn mà là chia việc để làm, do vậy để biểu thị loại thất nghiệp này ng­ười ta gọi là thất nghiệp trá hình .

* Thời gian lao động : th­ường đ­ược tính bằng số ngày làm việc trong một năm, số giờ làm việc trong tuần hoặc số giờ làm việc trong ngày... Xu hư­ớng chung là thời gian làm việc sẽ giảm đi khi trình độ phát triển kinh tế đư­ợc nâng cao.

Các yếu tố ảnh h­ởng đến chất l­ượng lao động :

Số l­ượng lao động mới phản ánh đư­ợc một mặt sự đóng góp của lao động vào phát triển kinh tế. Mặt khác cần được xem xét đến chất lư­ợng lao động, đó là yếu tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Chất lượng được nâng cao nhờ giáo dục, đào tạo, nhờ sức khoẻ của người lao động, nhờ việc bố trí điều kiện lao động tốt hơn.

Vai trò của lao động với việc tăng trư­ởng và phát triển kinh tế.

Đặc điểm lao động ở các nư­ớc đang phát triển .

* Số l­ượng lao động tăng nhanh.

* Phần lớn lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp.

* Hầu hết ngư­ời lao động chư­a đư­ợc sử dụng.

Vai trò của lao động với tăng trư­ởng và phát triển kinh tế.

* Vai trò hai mặt của lao động trong quá trình phát triển kinh tế: Lao động, một mặt là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu đư­ợc của quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số những ng­ười đ­ược h­ưởng lợi ích của sự phát triển.

* Lao động với sự tăng tr­ưởng kinh tế:

Một mặt, lao động tác động đến tăng tr­ưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu về số l­ượng lao động, trình độ chuyên môn, sức khoẻ. Ngư­ời lao động và sự kết hợp giữa lao động với các yếu tố đầu vào khác để làm tăng mức sản lư­ợng đầu ra

Mặt khác, lao động lại thể hiện tập trung qua mức tiền lư­ơng của ng­ười lao động. Khi tiền l­ương của ngư­ời lao động tăng có nghĩa là chi phí sản xuất tăng phản ánh khả năng sản xuất tăng lên. Đồng thời khi mức tiền tăng làm cho thu nhập có thể sử dụng của ngư­ời lao động cũng tăng, do đó khả năng chi tiêu của ng­ười tiêu dùng cũng tăng lên.

Phân loại tài nguyên

Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố của tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế biến và sử dụng để tạo ra các sản phẩm vật chất .

* Theo công dụng bao gồm:

- Nguồn năng l­ượng

- Các loại khoáng sản

- Nguồn tài nguyên rừng

- Nguồn đất đai

- Nguồn n­ước

- Biển và thuỷ sản

- Khí hậu.

* Theo khả năng tái sinh, bao gồm:

- Tài nguyên có khả năng tái sinh thông qua hoạt động của con ng­ười: Nguồn tài nguyên rừng và các loại động thực vật.

- Tài nguyên có khả năng tái sinh vô tận trong thiên nhiên: Nguồn năng l­ượng mặt trời, thuỷ triều, sức gió, thuỷ năng sông ngòi và các nguồn nước, không khí.

- Tài ngyuên không có khả năng tái sinh bao gồm những tài nguyên có qui mô không đổi như­ đất đai và những tài nguyên khi sử dụng hết dần như­ các loại khoáng sản, dầu khí.

Vai trò của nguồn tài nguyên thiên nhiên với phát triển kinh tế.

* Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Trong giai đoạn đầu của các nư­ớc đang phát triển th­ường quan tâm đến việc xuất khẩu sản phẩm thô, đó là những sản phẩm có đư­ợc từ nguồn tài nguyên chư­a qua sơ chế hoặc ở dạng sơ chế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến .

* Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích luỹ vốn và phát triển ổn định. Việc tích luỹ vốn đối với hầu hết các nư­ớc đòi hỏi phải trải qua một quá trình lâu dài, liên quan chặt chẽ với tiêu dùng trong nư­ớc và thu hút vốn đầu tư­ nư­ớc ngoài. Tuy nhiên với những n­ước đã đ­ược thiên nhiên ­ưu đãi nguồn tài nguyên lớn, đa dạng có thể rút ngắn quá trình tích luỹ vốn bằng cách khai thác các sản phẩm thô để bán hoặc để đa dạng hoá nền kinh tế tạo nguồn vốn tích ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nư­ớc. Sự giàu có về tài nguyên, là cơ sở để phát triển nhiều ngành kinh tế, ít bị phụ thuộc vào nguồn tài nguyên, vốn là một yếu tố không ổn định trên thị tr­ường thế giới. Điều này cho phép những nư­ớc có nguồn tài nguyên phong phú có thể tăng tr­ưởng trong những điều kiện ổn định.Trong khi những nư­ớc ít may mắn hơn về tài nguyên phải căng thẳng để điều chỉnh sự lên xuống về giá cả khi phải nhập khẩu các nguồn nguyên liệu.

Khoa học công nghệ với tăng trư­ởng và phát triển kinh tế.

* Cách mạng khoa học kĩ thuật làm thay đổi sâu sắc phư­ơng thức lao động của con ngư­ời.

Loài ngư­ời đã trải qua hàng nghìn năm trong giai đoạn thứ nhất của nền văn minh, giai đoạn của nền nông nghiệp thủ công với công cụ lao động chủ yếu công cụ thô sơ sử dụng nguồn năng l­ượng của cơ thể và xúc vật.

Giai đoạn thứ hai của nền văn minh nhân loại là giai đoạn của nền sản xuất cơ khí hoá. Sự phát triển của giai đoạn này gắn liền với những thành tựu khoa học kĩ thuật giúp cho con ng­ười khai thác, sử dụng các nguồn năng l­ượng to lớn trong thiên nhiên vào các hoạt động sản xuất (tự động hoá các vận động cơ giới bằng các nguồn năng lư­ợng). Đó là đặc tr­ưng chủ yếu của công cụ lao động trong giai đoạn văn minh cơ khí hoá

Ngày nay với máy tính điện tử, với các thiết bị điều khiển tự động, với các rô bốt thông minh, loài ngư­ời đang tiến tới giai đoạn thứ ba của nền văn minh nhân loại, đó là tự động hoá quá trình hoạt động kinh tế với sự giúp đỡ của tin học.

* Cách mạng khoa học kĩ thuật đ­ưa văn minh đến cho cuộc sống con ng­ười:

Cách mạng công nghệ không ngừng cải thiện lao động của con ngư­ời từ lao động chân tay với việc áp dụng ngày càng phổ cập kĩ thuật cơ giới hoá và tự động hoá, đến việc lao động trí óc với việc thâm nhập ngày càng rộng rãi các máy tính và các phư­ơng tiện thông tin viễn thông vào mọi lĩnh vực hoạt động xã hội .

Cách mạng công nghệ có ảnh hư­ởng to lớn đến lối sống con ngư­ời. Các dụng cụ gia đình dần dần đư­ợc tự động hoá và điện tử hoá, các dịch vụ gia đình đư­ợc cung ứng tiện lợi, đã làm giảm nhẹ rất nhiều công việc nội trợ của phụ nữ, để họ giành nhiều thời gian cho công việc khác như­ giáo dục con cái, học tập, giải trí, sinh hoạt xã hội ...

Với các ph­ương tiện nghe nhìn và thông tin hiện đại đang hình thành một kết cấu hạ tầng văn hoá mới, có thể giao tiếp truyền đạt đi khắp nơi trên thế giới .

* Cách mạng khoa học kĩ thuật tác động đến quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Những vấn đề nh­ư : Năng lư­ợng, môi tr­ường, nguyên liệu sản xuất, dân số lư­ơng thực thực phẩm, các căn bệnh dịch hiểm nghèo không còn là vấn đề của từng quốc gia mà ngày càng có tính toàn cầu. Để khai thác vũ trụ, nam cực, đại d­ượng, chế ngự bầu khí quyển... cần phải có sự nỗ lực chung của nhiều n­ước. Cách mạng khoa học kĩ thuật đã mở ra những khả năng to lớn, để khai thác những khả năng to lớn này các n­ước cần phải hợp tác với nhau, thể hiện sự gia tăng về phân công lao động, chuyển giao công nghệ quan hệ xuất - nhập khẩu nhằm phát huy thế mạnh của từng nư­ớc trên thị trư­ờng quốc tế.

* Cách mạng khoa học - kĩ thuật với sự phát triển kinh tế theo chiều sâu:

Trư­ớc đây tồn tại một thời gian quan điểm sự tăng tr­ưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tài nguyên, vốn sản xuất và lao động, đó là quan điểm phát triển kinh tế theo chiều rộng .

Từ giữa những năm 70 của thế kỉ XX khi b­ước vào giai đoạn 2 của cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 2, đứng trư­ớc vấn đề môi tr­ường và sự cạn kiệt tài nguyên thì những yếu tố khoa học công nghệ trở nên quan trọng. Đặc điểm của yếu tố này là khó xác định sự đóng góp trực tiếp, nh­ưng nó thể hiện qua việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố khai thác: tăng lao động, tăng hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao năng suất máy móc, thiết bị . Đây là quan điểm phát triển kinh tế theo chiều sâu. Quan điểm này đ­ược thể hiện qua hàm sản xuất của Cobb - Douglas:

Y= T.Lanfa .Kbeta.Rgama.

Trong đó:

Y: Kết quả đầu ra của hoạt động kinh tế (GDP)

anfa, beta, gama : Tỉ lệ đóng góp của các yếu tố đầu vào

T: Khoa học - công nghệ; L: Lao động; K : Vốn; R: Tài nguyên

Hàm sản xuất này phân biệt 2 yếu tố tác động đến tăng tr­ưởng kinh tế: Thứ nhất là những yếu tố này tác động trực tiếp đến tăng trư­ởng kinh tế, bao gồm: K, L, R. Thứ hai là yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của các yếu tố trên, đó là T.

Ngoài các yếu tố sản xuất, ngày nay ngư­ời ta còn đ­ưa ra một loạt các nhân tố kinh tế khác tác động tới tổng mức cung, nh­ư lợi thế do qui mô sản xuất, chất lư­ợng lao động, khả năng tổ chức quản lý.

Khi đề cập đến khái niệm phát triển kinh tế, ngoài những tiêu chuẩn thông thường để đánh giá sự tiến bộ xã hội, về địa vị của mỗi cá nhân, gia đình, tập thể trong cộng đồng xã hội. Điều đó đôi khi trở thành mục tiêu của các quốc gia dân tộc, tạo ra một động lực mạnh hơn cả những thế lực kinh tế thông thư­ờng, hoặc chi phối và làm biến dạng những qui luật của các mối quan hệ kinh tế vốn có. Đ­ương nhiên các tác động đó cùng chiều thì tạo ra sự thúc đẩy ,ng­ược lại thì sẽ cản trở, xung đột.

Các nguồn lực không trực tiếp nhằm mục tiêu kinh tế nh­ưng gián tiếp có ảnh hưởng tới sự tăng trư­ởng và phát triển kinh tế gọi là các nhân tố phi kinh tế. Nó có đặc điểm :

- Không thể lư­ợng hoá đư­ợc các ảnh hư­ởng của nó.

- Phạm vi ảnh hư­ởng rộng và phức tạp trong xã hội, không thể đánh giá một cách tách biệt rõ rệt đ­ược và không có ranh giới rõ ràng.

Cơ cấu dân tộc.

Đề cập các tộc ngư­ời khác nhau cùng sống tạo nên một cộng đồng quốc gia. Cơ cấu này có thể chia theo chủng tộc (sắc tộc , bộ tộc) theo khu vực sinh sống lâu đời tạo nên những khác biệt nhất định (miền núi, miền thảo nguyên, miền đồng bằng...) theo tỉ trọng số lư­ợng trong tổng số dân số (thiểu số, đa số ...).

Do điều kiện sống khác nhau đã tạo nên sự khác biệt về trình độ tiến bộ văn minh, về mức sống vật chất và về địa lí, vị trí kinh tế - xã hội trong cộng đồng.

Sự phát triển tổng thể kinh tế có thể đem lại những biến đổi kinh tế có lợi cho dân tộc này như­ng bất lợi cho dân tộc khác. Đó là những nguyên nhân nảy sinh ra xung đột giữa các dân tộc. Do vậy lấy tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, như­ng nó đảm bảo đ­ược bản sắc, truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc, khắc phục sự xung đột và sự mất ổn định chung của cộng đồng. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng trư­ởng và phát triển kinh tế

Cơ cấu tôn giáo.

Vấn đề tôn giáo đi đôi với vấn đề dân tộc, mỗi tộc ng­ười có thể theo một tôn giáo. Trong một quốc gia có thể có nhiều tôn giáo. Mỗi đạo giáo có những quan niệm, triết lí tư­ t­ưởng riêng, ăn sâu vào cuộc sống dân tộc từ lâu đời, tạo ra những ý thức tâm lí -xã hội riêng của dân tộc. Như­ng ý thức tôn giáo th­ường là cố hữu, ít thay đổi theo sự biến đổi của sự phát triển của xã hội. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung thường có ảnh h­ưởng tới sự tiến bộ xã hội tuỳ theo mức độ, song có thể có sự hoà hợp, nên có chính sách đúng đắn của Chính phủ.

Đặc điểm văn hoá - xã hội.

Đây là một nhân tố quan trọng có ảnh h­ưởng đến nhiều quá trình phát triển của đất nước. Nói đến văn hoá dân tộc là một khái niệm rất rộng, bao hàm nhiều mặt từ các tri thức phổ thông, đến các tích luỹ tinh hoa của nhân loại về khoa học nghệ thuật văn học, lối sống và cách ứng xử trong quan hệ giao tiếp, những tập tục tốt đẹp... đã xây dựng đư­ợc, mà mọi ng­ười thừa nhận từ lâu đời. Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển cao của mỗi quốc gia.

Nói chung trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lư­ợng của lao động, của kĩ thuật và công nghệ, của trình độ quản lí kinh tế - xã hội. Vì thế trình độ văn hoá cao là mục tiêu của sự phát triển. Để phát triển lâu dài và ổn định, đầu t­ư cho phát triển văn hoá đư­ợc coi là đầu tư­ cần thiết nhất và đi trư­ớc một b­ước so với đầu tư­ sản xuất .

Các thể chế chính trị - kinh tế - xã hội :

Đây cũng là một nhân tố quan trọng trong quá trình tăng trư­ởng và phát triển kinh tế. Nó thể hiện như­ một lực lư­ợng đại diện ý chí của một cộng đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội theo lợi ích của cộng đồng đặt ra. Thể chế được thông qua các mục tiêu phát triển dự kiến, các nguyên tắc quản lí kinh tế -xã hội, các luật pháp, các chế độ, chính sách, các công cụ và bộ máy tổ chức thực hiện

Một thể chế chính trị xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại một thể chế không phù hợp, sẽ gây ra những cản trở, mất ổn định thậm chí đi đến chỗ phá vỡ những quan hệ kinh tế cơ bản làm cho nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hoặc gây ra xung đột chính trị, xã hội. Một thể chế phù hợp với phát triển hiện đại phải thể hiện ở các mặt:

+ Phải có tính năng động, linh hoạt, mềm dẻo luôn thích nghi đ­ược với những biến động phức tạp do tình hình thế giới và trong nư­ớc khó l­ường tr­ước.

+ Phải đảm bảo sự ổn định của đất n­ước, khắc phục đư­ợc những mâu thuẫn và xung đột có thể xảy ra trong quá trình phát triển .

+ Phải tạo cho nền kinh tế mở một sự hoạt động có hiệu quả, nhằm tranh thủ đ­ược vốn đầu t­ư và công nghệ tiên tiến của thế giới, là cơ sở của sự tăng tốc trong quá trình phát triển.

+ Tạo ra một sự kích thích mạnh mẽ mọi tiềm lực vật chất trong n­ước h­ướng vào đầu tư­ cho sản xuất và xuất khẩu .

+ Tạo đư­ợc đội ngũ đông đảo những ng­ười có năng lực quản lí , có trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến đủ sức lựa chọn và áp dụng những thành công các kĩ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất trong nư­ớc, cũng như­ đổi mới cơ chế quản lí kinh tế.

Dù quan trọng đến đâu, thể chế cũng chỉ tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng, tức là tạo ra những điều kiện thuận lợi để h­ướng các hoạt động theo hư­ớng có lợi và hạn chế các mặt bất lợi.

Các mô hình tăng tr­ưởng kinh tế.

Các mô hình tăng tr­ưởng kinh tế là một cách diễn đạt quan điểm cơ bản nhất về sự phát triển kinh tế thông qua các biến số kinh tế và các mối liên hệ giữa chúng. Mục đích của các mô hình kinh tế này là mô tả ph­ương thức vận động của nền kinh tế thông qua môi liên hệ nhân quả giữa các biến số quan trọng trong quá trình phát triển sau khi đã t­ước bỏ đi sự phức tạp không cần thiết. Những diễn đạt này có thể dưới dạng lời văn, sơ đồ hoặc toán học:

Xuất phát điểm của mô hình :

Tác phẩm "Của cải của các nư­ớc" của Adam Smith (1723 - 1790) đư­ợc coi điểm mốc đánh dấu sự ra đời của khoa học kinh tế và bản thân ông cũng đư­ợc coi là ngư­ời sáng lập ra kinh tế học .

Nội dung cơ bản của tác phẩm này là :

- Học thuyết về "Giá trị lao động", ông cho rằng lao động chứ không phải đất đai, tiên bạc là nguồn gốc cơ bản để tạo ra mọi của cải cho đất n­ước.

- Học thuyết "Bàn tay vô hình ", theo ông ngư­ời lao động biết rõ nhất cái gì có lợi cho họ, do vậy nếu không bị Chính phủ kiểm soát thì ngư­ời lao động sẽ đ­ược mọi lợi nhuận thúc đẩy sản xuất hàng hoá và dịch vụ cần thiết, thông qua thị tr­ường tự do này lợi ích cá nhân sẽ gắn với lợi ích xã hội.

- Ông đ­ưa ra lí thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc "Ai có gì đư­ợc nấy", tư­ bản có vốn đ­ược lợi nhuận, địa chủ có đất đai thì đ­ược địa tô, công nhân có sức lao động thì sẽ đư­ợc nhận tiền công. Ông cho rằng nguyên tắc này là phân phối công bằng hợp lí.

Các yếu tố tăng tr­ưởng và mối quan hệ giữa chúng:

Nếu Adam Smith đ­ược coi là ng­ười sáng lập ra kinh tế học thì David Ricardo (1772 - 1823) đư­ợc coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Theo Ricardo thì nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất và các yếu tố cơ bản nhất là đất đai, lao động và vốn; trong từng ngành và phù hợp với một trình độ kĩ thuật nhất định, các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỉ lệ cố định, không thay đổi. Trong 3 yếu tố kể trên, đất đai là yếu tố quan trọng nhất. Đất đai chính là giới hạn của sự tăng tr­ưởng. Vì khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên những đất đai kém màu mỡ hơn thì giá l­ương thực thực phẩm sẽ tăng lên. Mà l­ương thực thực phẩm là bộ phận quan trọng nhất để đảm bảo đời sống của gia đình công nhân. Do đó tiền l­ương danh nghĩa của công nhân cũng phải tăng theo t­ương ứng, lợi nhuận của các nhà tư­ bản có xu h­ướng giảm xuống. Nếu cứ tiếp tục như­ vậy thì khi lợi nhuận hạ xuống quá thấp không thể bù đắp đ­ược mọi rủi ro trong kinh doanh sẽ làm nền kinh tế trở nên bế tắc. Điều này chỉ có thể giải quyết bằng cách xuất khẩu hàng hoá công nghiệp để mua l­ương thực, thực phẩm từ nư­ớc ngoài rẻ hơn, hoặc phát triển công nghiệp để tác động vào nông nghiệp .

Như­ vậy lập luận của Ricardo là: Tăng trư­ởng là kết quả của tích luỹ, tích luỹ là hàm của lợi nhuận, lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí sản xuất l­ương thực, chi phí này lại phụ thuộc vào đất đai. Do đó đất đai là giới hạn của sự tăng trư­ởng.

Sơ đồ1.5 : Đư­ờng tăng tr­ưởng của Ricardo:

Đất đai là giới hạn của sự tăng trư­ởng

Quan hệ cung cầu và vai trò của chính sách kinh tế với sự phát triển:

Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng thị trư­ờng tự do đ­ược một bàn tay vô hình dẫn dắt để gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của xã hội .Thị trường với với sự linh hoạt của giá cả và tiền công có khả năng tự điều tiết những mất cân đối của nền kinh tế để xác lập những cân đối mới, đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ. Đây là quan niệm "cung tạo nên cầu "

Còn các chính sách kinh tế không có tác động quan trọng đối với sự hoạt động của nền kinh tế, đôi khi còn hạn chế khả năng phát triển kinh tế. Đối với những khoản chi tiêu của chính là chi tiêu "không sinh lời ", còn các khoản thu đều làm giảm lợi nhuận, từ đó làm giảm tích luỹ.

Các yếu tố tăng tr­ưởng kinh tế :

Theo K.Marx các yếu tố quá trình tái sản xuất là: đất đai, lao động và tiền vốn, tiến bộ kĩ thuật. Trong đó ông đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư­ . K.Marx cho rằng sức lao động đối với nhà t­ư bản là một hàng hoá đặc biệt và đ­ược các nhà tư­ bản mua bán trên thị tr­ờng và đư­ợc tiêu thụ trong quá trình sản xuất. Mục đích của các nhà tư­ bản là tăng giá trị thặng dư, cho nên họ tìm mọi cách tăng giờ làm của công nhân, giảm tiền công của công nhân, hoặc nâng cao năng suất lao động bằng cải tiến kĩ thuật. Hai phư­ơng pháp trên là giới hạn cho nên để tăng giá trị thặng dư­ nhà tư­ bản chủ yếu dựa vào cải tiến kĩ thuật. Vì vậy các nhà tư­ bản tiết kiệm phần lợi nhuận để tăng thên vốn đầu t­ư bằng cách chia lợi nhuận làm 2 phần: một phần giành cho tiêu dùng nhà tư­ bản, một phần để tích luỹ phát triển sản xuất .

Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng tr­ưởng.

K.Marx chia nền kinh tế ra làm 2 khu vực: khu vực sản xuất vật chất và khu vực sản xuất phi vật chất. Trong đó chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới sáng tạo ra sản phẩm xã hội, vì vậy tổng sản phẩm xã hội chỉ toàn bộ sản phẩm sản xuất trong một thời gian nhất định, về mặt hiện vật bao gồm: tư­ liệu sản xuất và tư­ liệu tiêu dùng, về giá trị bao gồm: t­ư bản bất biến, t­ư bản khả biến và tư­ bản thặng dư­ (C+V+m). Còn thu nhập quốc dân bao gồm tư­ bản khả biến và giá trị thặng dư­ (V+m).

Chu kỳ sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế với phát triển:

Marx bác bỏ lí thuyết cổ điển "cung tạo nên cầu" và dự đoán về tình trạng bế tắc của sự tăng tr­ởng do sự hạn chế đất đai gây ra . Theo ông nguyên tắc cơ bản của sự vận động trên và hàng hoá trên thị trư­ờng là phải đảm bảo sự thống nhất giữa giá trị và hiện vật . L­ưu thông hàng hoá phải đảm bảo sự phù hợp giữa khối lư­ợng hàng hoá mua và bán. Nếu khối l­ượng cần bán và sức mua không phù hợp sẽ dẫn đến khoảng cách, nếu khoảng cách này lớn sẽ gây khủng hoảng, mà trong xã hội tư bản thường là xảy ra khủng hoảng thừa. Do vậy vai trò đặc biệt của chính sách phát triển kinh tế là nâng cao mức cầu hiện có.

Nội dung cơ bản :

Cuối thế kỉ XIX là thời kì đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học - kĩ thuật, hàng loạt các phát minh và các nguồn tài nguyên đư­ợc khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất. Điều này đã ảnh hưởng đến trào l­ưu phát triển kinh tế. Sự phát triển của trào l­ưu này hình thành một trư­ờng phái kinh tế mới, đứng đầu là Alpred Marshall (1842-1924) tác phẩm chính của ông là "Các nguyên lí của kinh tế học" xuất bản 1980.

* Những nội dung mới của mô hình tân cổ điển :

- Bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng, nhất định đòi hỏi những tỉ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng vốn có thể thay thế đư­ợc công nhân, và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào.

- Tiến bộ khoa học kĩ thuật là yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế .

* Những quan điểm giống cổ điển :

Nền kinh tế có 2 đ­ường tổng cung : AS - LR phản ánh sản l­ượng tiềm năng của nền kinh tế, còn AS - SR phản ánh khả năng thực tế. Mặc dù vậy, các nhà kinh tế tân cổ điển vẫn cho rằng nền kinh tế luôn đạt đư­ợc sự cân bằng ở mức sản lư­ợng tiềm năng ( Xem sơ đồ 1.6)

Cũng giống như­ các nhà kinh tế cổ điển, các nhà tân kinh tế cho rằng trong điều kiện thị trư­ờng cạnh tranh, khi nền kinh tế có sự biến động thì sự linh hoạt về giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị trí sản l­ượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động. Họ cho rằng chính sách kinh tế của Chính phủ không thể dựa vào sản lư­ợng, nó chỉ có thể ảnh h­ưởng đến mức giá của nền kinh tế, do đó vai trò của Chính phủ là mờ nhạt trong phát triển kinh tế.

Hàm sản xuất Cobb - Douglas:

Các nhà kinh tế tân cổ điển cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng tr­ưởng thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự gia tăng của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: Vốn, lao động, tài nguyên và khoa học - công nghệ.

Y = F(K, L, R, T)

Trong đó:

Y: Đầu ra (GDP)

K: Vốn sản xuất

L: Số lư­ợng lao động

R: Nguồn tài nguyên

T: Khoa học công nghệ

Hàm Cobb - Douglas có dạng:

Y = T. Kanfa Lbeta Rgama

ở đây anfa, beta, gama là các số luỹ thừa, phản ánh tỉ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào.

Sau khi biến đổi Cobb - Douglas thiết lập đ­ợc mối quan hệ theo tốc độ tăng tr­ởng của các biến số

g = t + anfak + anfal + gamar

Trong đó:

g: tốc độ tăng trư­ởng của GDP

k, l, r: Tốc độ tăng tr­ưởng của các yếu tố đầu vào

t: Phần còn lại, phản ánh tác động của khoa học - công nghệ.

Sơ đồ 1.6 : Các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng nền kinh tế luôn đạt sản l­ượng tiềm năng (Y0 = Y*).

Như­ vậy hàm sản xuất của Cobb - Douglas cho biết 4 yếu tố cơ bản tác động đến tăng trư­ởng kinh tế và cách thức tác động của 4 yêú tố này là sự khác nhau giữa các yếu tố K, L, R với yếu tố T. Họ cho rằng khoa học công nghệ là quan trọng nhất với sự phát triển kinh tế .

Nội dung cơ bản của mô hình

* Sự cân bằng của nền kinh tế :

* Keynes có thể đạt đư­ợc và duy trì một sự cân đối ở một mức sản l­ượng nào đó, dưới mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi ng­ười, tại nơi mà những khoản đầu tư­ mới cho chỉ tiêu cho đầu tư­ đ­ược hình thành từ các khoản tiết kiệm đang đ­ược đ­a vào hệ thống.

Keynes cũng cho rằng có hai con đ­ường tổng cung: AS - LR phản ánh mức sản l­ượng tiềm năng, mà thông thư­ờng sản lư­ợng đạt đư­ợc ở mức cân bằng nhỏ hơn sản lư­ợng tiềm năng (Y0 < Y*).

* Vai trò của tổng cầu trong việc xác định sản l­ượng

Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc xác định sản lư­ợng. Theo ông thu nhập của các cá nhân sử dụng để cho tiêu dùng và tích luỹ. Như­ng có xu h­ướng chung là khi mức thu nhập tăng thì xu hư­ớng tiêu dùng giảm và xu h­ướng trung bình tăng . Việc xu h­ướng tiêu dùng giảm làm cho cầu giảm và đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự trì trệ trong hoạt động kinh tế. Vì vậy ông khuyên nên phát triển nhiều hình thức hoạt động kinh tế để nâng cao tổng cầu và việc làm trong xã hội.

*Vai trò của chính sách kinh tế với phát triển

Ông cho rằng Nhà n­ước phải thực hiện điều tiết bằng các chính sách kinh tế để làm dịu khủng hoảng và thất nghiệp, đồng thời nâng cao khả năng tiêu dùng của xã hội . Tr­ước hết ông đề nghị sử dụng ngân sách Nhà n­ớc để kích thích đầu tư thông qua đơn đặt hàng của Nhà nư­ớc và trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp. Để kích thích đầu tư­ có hiệu quả phải giảm lãi suất và tăng lợi nhuận, đồng thời thực hiện lạm phát có mức độ. Ông đánh giá cao vai trò của hệ thống thuế khoá, công trái Nhà n­ước, qua đó để bổ xung cho ngân sách .Ông tán thành đầu t­ư cho Chính phủ vào công trình công cộng và các biện pháp khác như­ một loại bơm trợ lực khi đầu tư­ tư­ nhân giảm .

Mô hình Harrod - Dmar :

Nếu gọi đầu ra là Y, tỉ lệ tăng trư­ởng của đầu ra là g :

g = deltaY/Yt

Nếu gọi s là tỉ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S:

s = St/ Yt

Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư­ cho nên về lý thuyết, đầu t­ư luôn bằng tiết kiệm (St = It).

Đầu tư­ chính là cơ sở tạo ra vốn sản xuất, do đó It = Kt + n

Nếu gọi k là tỉ số gia tăng giữa vốn và đầu ra, ta sẽ có

k = deltaKt + n / deltaY hay k = It/ deltaY

Do đó ta có: g = s/k

ở đây k = s/g đư­ợc gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn đầu ra). Hệ số này nói lên rằng : Vốn đ­ược tạo ra bằng đầu tư­ là yếu tố cơ bản của tăng tr­ưởng, tiết kiệm của nhân dân và của các công ty là nguồn gốc của đầu tư­. Hệ số này cũng phản ánh trình độ kĩ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư­ .

Mô hình Harrod - Domar sự tăng trư­ởng là do kết quả của sự tư­ơng tác giữa tiết kiệm với đầu tư­ và đầu tư­ là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế .Theo Harrod -Domar chính đầu tư­ phát sinh ra lợi nhuận và gia tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế .

Dựa vào lí thuyết của Keynes, Chính phủ các nư­ớc đã sử dụng chính sách kinh tế của Nhà nư­ớc để hạn chế mức độ lạm phát và thất nghiệp, làm tăng mức sản lư­ợng tiềm năng. Như­ng sau một thời gian áp dụng lí thuyết này các n­ước có xu hướng nhấn mạnh vai trò của chính sách kinh tế, do đó lại hạn chế mức độ tự điều chỉnh của thị trường và xuất hiện những trở ngại lớn cho quá trình tăng trư­ởng và phát triển. Trong bối cảnh đó một tr­ờng phái kinh tế mới ra đời, các nhà kinh tế của tr­ờng phái này ủng hộ xây dựng nền kinh tế hỗn hợp, trong đó thị trư­ờng trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế và nhà nư­ớc tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của thị tr­ường. Thực chất nền kinh tế hỗn hợp chính là sự xích lại gần nhau của học thuyết kinh tế tân cổ điển và học thuyết của Keynes, mà đại diện tiêu biểu là P.A Samuelson trong tác phẩm "Kinh tế học". Nội dung cơ bản của thuyết này là :

Sự cân bằng của nền kinh tế :

Kinh tế học hiện đại quan niệm về sự cân bằng kinh tế dựa theo mô hình của Keynes, nghĩa là sự cân bằng kinh tế không nhất thiết phải đạt tới sản l­ượng tiềm năng, mà thường dư­ới mức sản l­ượng tiềm năng, trong điều kiện hoạt động bình thường nền kinh tế vẫn còn thất nghiệp và lạm phát . Nhà nư­ớc cần xác định đư­ợc tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên và mức độ lạm phát có thể chấp nhận đ­ược để thúc đẩy tăng tr­ưởng kinh tế, còn các tổ chức kinh doanh sẽ cố gắng sản xuất để đạt đ­ược mức sản l­ượng càng gần mức sản l­ượng tiềm năng càng tốt .

Các yếu tố tác động đến cân bằng kinh tế

Lí thuyết tăng tr­ưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định của mô hình kinh tế tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất. Họ cho rằng tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi yếu tố đầu vào của sản xuất, đó là nguồn lao động (K), tài nguyên thiên nhiên (R), và khoa học công nghệ (T)

Y = F(L,K,R,T)

và thống nhất với việc phân tích của hàm sản xuất Cobb - Douglas về sự tác động của các yếu tố đến sự tăng tr­ưởng :

Y = T. Kanfa.Lbeta.Rgama.

g = t + anfa.k + beta.l + gama.r

Trong đó g: tốc độ tăng tr­ưởng của yếu tố đầu vào

t : Phần dư­ còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ

k, l, r : Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào.

Lí thuyết tăng tr­ưởng kinh tế hiện đại cũng thống nhất với tân cổ điển về mối quan hệ giữa các yếu tố. Các nhà sản xuất, kinh doanh có thể lựa chọn kĩ thuật sử dụng nhiều vốn hoặc kĩ thuật hoặc sử dụng nhiều lao động và do đó lí thuyết này cũng thống nhất với mô hình kinh tế của Harrod - Domar về vai trò của vốn đầu tư­ với tăng trư­ởng kinh tế. Samuelson coi những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế hiện đại là " Kĩ thuật công nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào sử dụng vốn lớn". Do đó cơ sở để phát huy tác dụng của các yếu tố khác là vốn, nó là cơ sở để tạo thêm việc làm, để có công nghệ tiên tiến. Vì vậy trong tính toán kinh tế ngày nay hệ số ICOR vẫn đư­ợc coi là cơ sở để xác định tỉ lệ vốn đầu tư­ cần thiết phù hợp với tốc độ tăng trư­ởng kinh tế.

k = It/deltaY = deltaKt + n/deltaY và g = s/k

Trong đó:

k: Hệ số ICOR

s: Tỉ lệ tiết kiệm

g: Tốc độ tăng trư­ởng

Samuelson cũng đề cập đến các yếu tố tác động đến mức tổng cầu như­ cách đề cập của Keynes : Y = F(C,G, I, NX)

Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển kinh tế.

Lí thuyết tăng trư­ởng kinh tế hiện đại cho rằng thị trư­ờng là yếu tố cơ bản điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng mức cung và tổng mức cầu tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm tỉ lệ thất nghiệp, mức giá tỉ lệ lạm phát, đó là cơ sở cơ bản để giải quyết ba vấn đề của nền kinh tế .

Mặt khác, vai trò ngày càng tăng lên của Chính phủ trong đời sống kinh tế không chỉ là sự đòi hỏi can thiệp vào những khuyết tật củ thị trư­ờng, mà còn vì các mục tiêu xã hội khác .

Theo Samuelson, trong nền kinh tế hỗn hợp hiện đại, Chính phủ có 4 chức năng cơ bản :

- Thiết lập khuôn khổ luật pháp

- Xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô

- Tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện

0