25/05/2018, 10:13

Các giải pháp cụ thể để xác định thành phần của các khối tài sản nợ

Khái niệm Luật viết không có quy định trực tiếp nhằm làm rõ khái niệm nhu cầu của gia đình. Tuy nhiên, từ các điều luật nằm rải rác trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, có thể ghi nhận rằng cái gọi là “nhu cầu ...

Khái niệm

Luật viết không có quy định trực tiếp nhằm làm rõ khái niệm nhu cầu của gia đình. Tuy nhiên, từ các điều luật nằm rải rác trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, có thể ghi nhận rằng cái gọi là “nhu cầu của gia đình” có thể được phân chia thành hai nhóm - nhu cầu thông thường và nhu cầu về duy trì quan hệ tình cảm với người ngoài gia đình hộ - có nội dung được xác định như dưới đây.

Nhu cầu thông thường

Khái niệm

Nhu cầu về cuộc sống vật chất và tinh thần.Nhu cầu thông thường có thể được hiểu như cái cần thiết để thoả mãn sự đòi hỏi thông thường về vật chất hoặc tinh thần của con người bình thường. Trong chừng mực đó, có thể hiểu nhu cầu của gia đình như là các nhu cầu gắn với cuộc sống vật chất và tinh thần hàng ngày của các thành viên trong gia đình: ăn, mặc, điện, nước, điện thoại, đi lại thường xuyên, tiếp xúc thông tin cần thiết cho cuộc sống và cho công việc, vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi thư giãn nhằm phục hồi sức lao động,...

Trong khung cảnh của luật Việt Nam hiện hành, cũng là một phần trong nhu cầu của gia đình, các chi phí cần thiết cho việc giáo dục con cái - chi phí học chính khoá, chi phí học thêm, chi phí sách vở, quần áo học sinh,...- và cho việc nâng cao tri thức, năng lực nghề nghiệp của vợ, chồng - chi phí học tập chuyên sâu, nâng cao, tu nghiệp, rèn luyện kỹ năng tin học, trau giồi ngoại ngữ,...

Một số trường hợp chi tiêu đặc biệt

Thuê nhà ở. Trong không ít trường hợp, vợ chồng, dù sống độc lập với cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ, không có quyền sở hữu đối với căn hộ dùng làm nơi ở của họ, mà chỉ là những người thuê nhà. Việc thuê nhà làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền thuê nhà. Ta nói rằng nếu nhà ở dùng làm nơi ở chính của gia đình là nhà thuê, thì tiền thuê nhà ở là một phần trong nhu cầu thiết yếu của gia đình.

Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm con người. Nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm có được coi là nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình ? Câu trả lời không dễ dàng trong khung cảnh của luật hiện hành, bởi các loại hình bảo hiểm đang phát triển rất đa dạng.

- Bảo hiểm con người. Điều chắc chắn, gia đình không thể từ chối những thực hiện nghĩa vụ nộp lệ phí bảo hiểm trong các trường hợp bảo hiểm bắt buộc (ví dụ, bảo hiểm xã hội). Các trường hợp bảo hiểm học đường có thể được coi như một phần của chi phí giáo dục con cái. Cũng có những bảo hiểm không mang tính chất bắt buộc về mặt pháp lý, nhưng lại được ghi nhận trong hợp đồng lao động như một điều kiện để giao kết hợp đồng. Các bảo hiểm bắt buộc hoặc các bảo hiểm được ghi nhận như một phần nội dung của hợp đồng lao động là những giao dịch cần thiết nhằm bảo vệ sức khoẻ và khả năng lao động của con người và phải được coi như giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.

Còn lại các quan hệ bảo hiểm mang tính chất thuần tuý kết ước và không phải là một phần của một giao dịch khác. Hẳn không thể coi các bảo hiểm này là các giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trong nhiều trường hợp, bảo hiểm còn được xem như một cách tích lũy của cải (như trong trường hợp bảo hiểm an sinh). Thông thường, phí bảo hiểm trong các trường hợp này được đóng bằng cách trích từ thu nhập thường xuyên của người “mua” bảo hiểm, nghĩa là bằng tài sản chung của vợ (chồng), nhưng người “bán” bảo hiểm không bao giờ coi nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm ấy là nghĩa vụ chung của vợ và chồng.

- Bảo hiểm tài sản chung. Việc bảo hiểm tài sản cũng có thể mang tính chất bắt buộc, như trường hợp bảo hiểm phương vận tải cơ giới lưu hành. Song, trong đa số trường hợp, việc bảo hiểm tài sản thường xuất phát từ ý chí của chủ sở hữu. Có thể thừa nhận rằng đối với tài sản là phương tiện tạo thu nhập chủ yếu cho gia đình, việc mua bảo hiểm để đối phó với những rủi ro về tài sản nên được coi là giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Một chút do dự có thể xuất hiện trong trường hợp bảo hiểm tài sản tạo thu nhập không đáng kể hoặc không chủ yếu. Riêng việc bảo hiểm (không bắt buôc) đối với các tài sản không sinh lợi không nên được coi là giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, ngay cả trong trường hợp tài sản thuộc loại quý, hiếm

Ví dụ, bảo hiểm đồ vật cổ, tranh vẽ của các danh hoạ,... Mọi chuyện có thể khác đi, nếu tài sản được bảo hiểm sinh lợi, thậm chí có hoa lợi là nguồn thu nhập quan trọng của gia đình. Có thể hình dung: đồ vật cổ, tranh ảnh,... thường được mang đi trưng bày tại các cuộc triển lãm có thu tiền vào cửa.
.

- Bảo hiểm tài sản riêng. Trên nguyên tắc, có lẽ nên chấp nhận cùng các giải pháp cho vấn đề bảo hiểm tài sản chung trong trường hợp tài sản được bảo hiểm là tài sản riêng. Song, cần lưu ý rằng một khi tài sản riêng không sinh lợi, việc bảo hiểm (không bắt buộc) đối với tài sản nên được coi là nghĩa vụ riêng đích thực của chủ sở hữu, nghĩa là chỉ được bảo đảm thực hiện bằng tài sản riêng của người xác lập giao dịch.

Các điều kiện chung của nhu cầu thông thường

Nhu cầu và sự cần thiết. Nhu cầu của gia đình không phải chỉ gắn với các họat động mang tính chất tiêu dùng hoặc chi tiêu nhỏ

Các chi phí nhắm đáp ứng các nhu cầu thông thường, được kể trên, được bảo đảm chủ yếu bằng tiền lương, thu nhập khác, hoa lợi, lợi tức từ tài sản gốc .
. Mua một chiếc xe máy dùng làm phương tiện đi lại chủ yếu của gia đình cũng là một giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình; thế mà loại giao dịch này cho đến nay vẫn được coi là liên quan đến tài sản có giá trị lớn trong nhiều trường hợp. Thực ra, để xác định một hoạt động nào đó là gắn hay không gắn với nhu cầu của gia đình, người ta không thể dựa vào các con số thể hiện giá trị của giao dịch, mà phải dựa vào lợi ích do giao dịch mang lại và sự cần thiết của lợi ích đó đối với gia đình. Một giao dịch không tốn kém nhiều nhưng lại không cần thiết, thì không được coi là nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình; ngược lại, một giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị lớn nhưng cần thiết cho gia đình, thì vẫn được coi là đáp ứng nhu cầu của gia đình.

Nhu cầu phù hợp với cách sống. Có những nhu cầu xuất hiện ở người này, nhưng lại không xuất hiện ở người khác, do mỗi người có cách sống của riêng mình. Một nhà khoa học có nhu cầu đọc các tạp chí chuyên ngành một cách thường xuyên, do đó có nhu cầu đặt mua dài hạn đối với các tạp chí đó, nhưng lại không có nhu cầu ăn uống theo một chế độ áp dụng đối với một vận động viên cử tạ. Một nhà nông có nhu cầu thường xuyên trao đổi thư từ với cơ quan khuyến nông để cập nhật thông tin, kiến thức về nông nghiệp nhưng lại không có nhu cầu chăm sóc chất lượng của thanh quản bằng các loại dược phẩm, hoa quả đặc biệt như một ca sĩ. Tất cả các nhu cầu gọi là thiết yếu trước hết phải là nhu cầu phù hợp với cách sống

Nhưng không phải nhu cầu nào phù hợp với cách sống cũng được coi là thiết yếu. Ví dụ, đi xem ca nhạc vào mỗi cuối tuần có thể là một nhu cầu lành mạnh phù hợp với nếp sống thị dân, nhưng không phải là nhu cầu thiết yếu của tất cả những người dân thành thị.
. Mặt khác, ngay đối với một nhu cầu cùng loại, sự đáp ứng cũng có thể ở các mức độ tốn kém khác nhau, do sự khác biệt trong cách sống và nhất là sự khác biệt về điều kiện thu nhập, nhưng đều có thể được coi là hợp lý: một đứa trẻ nhà giàu dùng loại tã lót cao cấp; trong khi một đứa trẻ nhà nghèo chỉ dùng loại tã lót rẻ tiền.

Nhu cầu về duy trì quan hệ tình cảm với người ngoài gia đình-hộ

Nghĩa vụ cấp dưỡng. Có trường hợp các thành viên trong cùng một gia đình không sống dưới cùng một mái nhà và, trong điều kiện một thành viên lâm vào hoàn cảnh sống khó khăn, thành viên khác có khả năng phải thực hiện nghĩa vụ cấp duỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng cũng có thể được xác lập sau khi vợ và chồng chấm dứt quan hệ hôn nhân và một người sống túng thiếu trong khi người còn lại có cuộc sống đầy đủ hơn và có điều kiện để trợ giúp dưới hình thức cấp dưỡng. Đối với gia đình của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, gia đình hiểu theo nghĩa hẹp, tức là gồm những người chung sống trong một nhà, cấp dưỡng cho một người sống ngoài gia đình không phải là giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất, trực tiếp của gia đình; nhưng việc đó có tác dụng tạo một khung cảnh tốt về mặt tình cảm mà trong đó gia đình theo nghĩa hẹp tồn tại và phát triển

Ngay nếu như nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện đối với vợ (chồng) trong cuộc hôn nhân trước hoặc con riêng, thì việc thực hiện nghĩa vụ cũng tỏ ra có tác dụng tốt đối với sự bình yên của gia đình mới của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Vấn đề chỉ trở nên tế nhị trong trường hợp người được cấp dưỡng là con ngoại tình của người có nghĩa vụ cấp dưỡng: sự tồn tại của mối quan hệ đó đã là điều không vui vẻ đối với vợ (chồng) và các thành viên gia đình của người ngoại tình; việc cấp dưỡng đều đặn lại có tác dụng nhắc đi nhắc lại với mọi người về “thành quả” của mối quan hệ được coi là không lành mạnh đó...
.

Thực hiện nghĩa vụ

Nhu cầu thông thường

Trường hợp nghĩa vụ do cả vợ và chồng cùng xác lập. TheoLuật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 28 khoản 2, tài sản chung của gia đình được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình; theo Điều 33 khoản 4, tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng. Kết hợp các điều luật ấy, ta nhận xét rằng trong trường hợp nghĩa vụ tài sản được xác lập nhằm bảo đảm nhu cầu của gia đình, thì tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ có thể thuộc khối tài sản chung hoặc thuộc khối tài sản riêng; nhưng vợ, chồng có quyền yêu cầu chủ nợ kê biên tài sản chung trước và chỉ kê biên tài sản riêng nếu tài sản chung không đủ để bảo đảm.

Cần lưu ý rằng trong trường hợp nghĩa vụ do cả vợ và chồng xác lập, thì một khi tài sản chung không đủ để bảo đảm, chủ nợ có quyền kê biên tài sản riêng của vợ hoặc của chồng mà không cần biết ai là người có nhiều tài sản hơn.

Trường hợp nghĩa vụ do vợ hoặc chồng tự mình xác lập. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 25, vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Bởi vậy, cả ba khối tài sản đều là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với chủ nợ, dù nghĩa vụ có thể chỉ do một bên xác lập. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng để thiết lập được tình trạng liên đới về nghĩa vụ trong trường hợp này, hai điều kiện sau đây phải hội đủ.

- Giao dịch phải hợp pháp;

- Giao dịch phải nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình, tức là các giao dịch thoả mãn các tiêu chí của nhu cầu thông thường, như đã nói ở trên.

Nếu thiếu một trong hai điều kiện đó, thì, một cách hợp lý, người không tham gia vào việc xác lập nghĩa vụ có quyền không cho phép chủ nợ kê biên các tài sản riêng của mình

Tất nhiên, nếu nghĩa vụ do cả vợ và chồng cùng xác lập, thì cả ba khối tài sản phải là vật bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, bất kể giao dịch có nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình hay không. Cần nhấn mạnh rằng tính không hợp pháp của một giao dịch phải được xác định trước Toà án chứ không phải theo đánh giá chủ quan của bên này hay bên kia.
. Đặc biệt, một giao dịch hợp pháp do một người xác lập nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình cũng không ràng buộc được tài sản riêng của người còn lại trong trường hợp nhu cầu tỏ ra không thiết yếu. Nhà đã có một chiếc tivi để tại phòng ăn; chồng tự mình mua thêm một chiếc tivi nữa để tại phòng khách; nếu chồng không trả đủ tiền mua tài sản, thì người bán không có quyền yêu cầu kê biên tài sản riêng của người vợ.

Nếu cả hai điều kiện có đủ, thì trong trường hợp tài sản chung không đủ để bảo đảm, chủ nợ có quyền yêu cầu kê biên tài sản riêng của chồng hoặc của vợ mà không cần biết ai là người trực tiếp xác lập nghĩa vụ, do áp dụng Luật hôn nhân và gia đình, các Điều 25 và 33 khoản 4. Thậm chí, trong điều kiện luật quy định khá chung, có thể thừa nhận rằng chủ nợ có quyền kê biên bất kỳ tài sản nào của gia đình, bất kể đó là của chung hay của riêng, mà không cần quan tâm đến khả năng thanh toán của khối tài sản chung.

Nghĩa vụ cấp dưỡng

Tài sản bảo đảm. Trên thực tế, khoản tiền hoặc khoản hiện vật mà người có nghĩa vụ dùng để cấp dưỡng cho một người khác thường được trích từ thu nhập do lao động hoặc hoa lợi, lợi tức từ tài sản của người có nghĩa vụ hoặc từ khối tài sản tích lũy từ thu nhập, hoa lợi, lợi tức ấy. Thậm chí, có thể nói rằng thu nhập hoặc hoa lợi, lợi tức ấy phải là các khoản thu thường xuyên, bởi khó có thể coi một người là có điều kiện cấp dưỡng một khi người này không có nguồn thu ổn định. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì, theo yêu cầu của người có quyền, cơ quan có thẩm quyền sẽ cho kê biên các tài sản này để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

Theo Nghị định số 70/2001-CP, ngày 3/10/2001, Điều 20 khoản 3, “theo quyết định của Tòa án, cơ quan, tổ chức trả tiền lương, tiền công lao động, các thu nhập thường xuyên khác cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ khoản cấp dưỡng để chuyển trả cho người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó theo đúng mức và phương thức cấp dưỡng do người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và người có nghĩa vụ cấp dưỡng thoả thuận hoặc theo mức và phương thức cấp dưỡng do Tòa án quyết định”. Rõ ràng, trong giả thiết của điều luật, người bị buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là một người làm công ăn lương. Trong trường hợp người có nghĩa vụ là người lao động tự do, cá thể hoặc là chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh, thì việc bắt buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, trên thực tế, cũng được bảo đảm bằng cách trích thu nhập, lợi tức, hoa lợi từ tài sản của người này. Nói chung, thu nhập, hoa lợi, lợi tức từ tài sản là các vật bảo đảm chính cho việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ở góc nhìn của thực tiễn.
. Tất cả những điều đó cho phép nghĩ rằng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng có vợ (chồng), thì đối với người có quyền yêu cầu cấp dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được bảo đảm thực hiện bằng tài sản mà người có nghĩa vụ có quyền sở hữu chung với vợ (chồng) của mình.

Giải pháp vừa nêu được chấp nhận bất kể người có quyền yêu cầu cấp dưỡng là ai và bất kể nghĩa vụ cấp dưỡng được xác lập trước khi kết hôn hay trong thời kỳ hôn nhân. Thực ra, giải pháp được xây dựng không dựa vào bản chất của nghĩa vụ cấp dưỡng - hình thức tương trợ giữa các thành viên trong cùng một gia đình - mà dựa vào đặc điểm về nguồn gốc của khoản tiền hoặc hiện vật thường được dùng để thực hiện nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng trước hết phải là người có điều kiện sống khả quan và có khả năng cấp dưỡng cho người khác. Về mặt kinh tế, đó phải là người có thu nhập và hoa lợi, lợi tức từ tài sản dư ra sau khi đã trang trải các chi phí cần thiết cho cuộc sống của chính mình và của gia đình mình cũng như cho việc bảo tồn các tài sản sinh lợi: không ai bị buộc phải cấp dưỡng cho người khác bằng tài sản gốc của mình

Xem Gia đình, nxb Trẻ 2002, số 392.
. Trong trường hợp thu nhập để dành hoặc hoa lợi, lợi tức trừ chi phí cần thiết đã được đầu tư để mua tài sản khác, thì tài sản mới không thể bị kê biên để thanh toán nghĩa vụ cấp dưỡng.

Đóng góp vào việc thực hiện nghĩa vụ

Nhận xét. Trong trường hợp đặc thù mà người có nghĩa vụ có vợ (chồng) và trong gia đình có đến ba khối tài sản, ta có thể tự hỏi liệu một khi một tài sản nào đó của gia đình được dùng để thanh toán nghĩa vụ đối với người có quyền, thì khối tài sản mà tài sản đó là một yếu tố có phải chịu tổn thất một cách dứt khoát ? Có thể hình dung: chồng có một con được sinh ra do ngoại tình và có nghĩa vụ cấp dưỡng; chồng dùng thu nhập của mình (tức là tài sản chung) để thực hiện nghĩa vụ đó; thế thì trong quan hệ nội bộ giữa vợ và chồng, liệu người vợ có buộc phải chấp nhận rằng khối tài sản chung gánh chịu nghĩa vụ đó hay có quyền yêu cầu người chồng phải dùng tài sản riêng để trả lại cho khối tài sản chung những gì mà khối tài sản chung đã ứng trước để giúp người chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình đối với con ngoại tình ? Luật viết hiện hành chưa có giải pháp cho vấn đề này. Thực tiễn, về phần mình, cũng chưa có chủ trương chung. Có lẽ phải suy nghĩ trên cơ sở phân biệt từng loại nghĩa vụ.

Nhu cầu thông thường

Khối tài sản chung là “người chịu trách nhiệm”. Khi xây dựng các Điều 28 khoản 2 và 33 khoản 4, người soạn thảo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không xác định rõ loại quan hệ chịu sự chi phối của các quy tắc liên quan. Do đó, có vẻ như cả trong quan hệ giữa vợ chồng và người thứ ba cũng như trong quan hệ nội bộ giữa vợ và chồng, các quy tắc ấy đều được áp dụng: nếu có đủ tài sản chung để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, thì, một mặt, chủ nợ chỉ có quyền yêu cầu kê biên tài sản chung để nhận tiền thanh toán; mặt khác, vợ chồng không có trách nhiệm dùng tài sản riêng để bù đắp sự hao hụt của khối tài sản chung do việc thực hiện các nghĩa vụ ấy. Nói rõ hơn, đối với các chi phí nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, khối tài sản chung là “người” thứ nhất có trách nhiệm đóng góp vào việc thanh toán; khối tài sản riêng chỉ phải đóng góp một khi khối tài sản chung không đủ để đáp ứng

Luật không xây dựng các tiêu chí của tình trạng “tài sản chung không đủ để đáp ứng”. Tuy nhiên, khó có thể thừa nhận rằng nếu hoa lợi, lợi tức và thu nhập không đủ để trang trải các chi phí cho các nhu cầu thiết yếu, thì phải huy động tài sản gốc riêng. Một cách hợp lý, tài sản gồc riêng phải đứng sau tài sản gốc chung trong thứ tự “ưu tiên được kêu gọi” để đóng góp vào việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình.
.

Nghĩa vụ cấp dưỡng

Thành viên bình thường và thành viên không bình thường. Trong suy nghĩ phù hợp với đạo lý truyền thống Việt Nam, không có vấn đề gì đặc biệt trong trường hợp người được cấp dưỡng là ông bà nội (ngoại) hoặc cha, mẹ hoặc anh, chị, em ruột của vợ hoặc của chồng. Khối tài sản chung của người có nghĩa vụ với vợ (chồng) của mình phải chịu trách nhiệm cấp dưỡng cho những người này. Có thể gọi những người có quyền yêu cầu cấp dưỡng ấy là những thành viên bình thường của gia đình của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

Trái lại, trong trường hợp người được cấp dưỡng là vợ (chồng), con trong cuộc hôn nhân trước, thậm chí là con sinh ra do quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân, thì việc để cho khối tài sản chung gánh chịu một cách dứt khoát phí tổn cấp dưỡng tỏ ra không hợp lý. Tài sản chung thuộc sở hữu chung của vợ và chồng. Người ta có thể tự hỏi tại sao vợ (chồng) của người có nghĩa vụ lại phải cùng gồng gánh với người sau này việc cấp dưỡng cho những người không có bất kỳ một mối ràng buộc đạo đức nào với mình. Dẫu sao, thực tiễn xét xử cho đến nay hầu như chưa xem vấn đề đóng góp của vợ, chồng vào việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là vấn đề nổi cộm. Có lẽ, vấn đề này được giải quyết chủ yếu bằng con đường dàn xếp trong nội bộ gia đình. Hơn nữa ta đã biết rằng nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện bằng cách trích thu nhập, hoa lợi, lợi tức từ tài sản của người có nghĩa vụ. Mà đối với loại tài sản chung này (đặc biệt là đối với thu nhập do lao động), người tạo ra tài sản được thực tiễn thừa nhận có các quyền định đoạt rộng rãi, kể cả quyền định đoạt không có đền bù, sau khi đã làm tròn các bổn phận đối với gia đình. Trong điều kiện đó, việc xác định rằng khối tài sản chung chịu trách nhiệm tối hậu đối với việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tỏ ra hợp lý, ngay cả trong trường hợp quan hệ giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng luôn gợi cho gia đình của người có nghĩa vụ những kỷ niệm không êm ả.

Khái niệm. Tạm gọi là gắn với khối tài sản, nghĩa vụ tài sản đi theo tài sản có, khi quyền sở hữu đối với tài sản được xác lập cho một người, để trở thành nghĩa vụ của người có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Cũng gọi là gắn với khối tài sản, nghĩa vụ được xác lập nhằm mục đích bảo quản hoặc tu bổ, nâng cấp một tài sản thuộc khối tài sản đó. Tất nhiên, nghĩa vụ gắn với một tài sản sẽ được bảo đảm thực hiện bằng chính tài sản đó. Vấn đề là: liệu người có quyền yêu cầu còn có thể kê biên tài sản nào khác ngoài tài sản đó, trong trường hợp người có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ ?

Thực hiện nghĩa vụ

Nghĩa vụ gắn với tài sản thừa kế riêng hoặc cho riêng

Tài sản bảo đảm. Các nghĩa vụ mà vợ hoặc chồng tiếp nhận trong khuôn khổ di chuyển di sản hoặc do được tặng cho riêng một tài sản nào đó là nghĩa vụ riêng và chỉ được bảo đảm thực hiện bằng các tài sản riêng. Người soạn thảo Luật hôn nhân gia đình không ghi nhận giải pháp này một cách chính thức. Luật chỉ quan tâm giải quyết vấn đề tài sản có được tặng cho riêng hoặc thừa kế riêng, chứ không đặt và giải quyết vấn đề chung hay riêng của tài sản nợ gắn với di sản hoặc với tài sản tặng cho. Hẳn, bởi vì trên thực tế, nếu di sản mất khả năng thanh toán, thì những người thừa kế cũng chẳng còn gì để chia với nhau; nếu di sản có tài sản nợ nhưng còn khả năng thanh toán, thì nợ được trả trước, những người thừa kế chỉ chia khối tài sản có ròng (actif net) thuộc di sản.

Dẫu sao, về mặt lý thuyết, không thể có giải pháp nào

0