Các chỉ tiêu áp dụng đối với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế khá rộng nó liên quan đến rất nhiều vấn đề như: Chi phí sản xuất ra sản phẩm, chi phí tiền lương, bảo hiểm, bán hàng, trang thiết bị kỹ thuật, kế hoạch tài chính trong doanh nghiệp, hay ...
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế khá rộng nó liên quan đến rất nhiều vấn đề như: Chi phí sản xuất ra sản phẩm, chi phí tiền lương, bảo hiểm, bán hàng, trang thiết bị kỹ thuật, kế hoạch tài chính trong doanh nghiệp, hay thông qua sản lượng, doanh thu, khả năng thanh toán, khả năng sử dụng vốn, vòng quay của vốn v.v... Từ những chỉ tiêu đó thì ta mới đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh một cách chính xác. Để nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ra sao ta cần phải hiểu qua tác dụng, ý nghĩa của các chỉ tiêu có liên quan đến việc đánh giá hiệu quả sản xuất.
- Chỉ tiêu về lực lượng lao động: Ngày nay máy móc đang phát triển và dần dần thay thế toàn bộ hoạt động sản xuất chân tay của người lao động, chúng sẽ là lực lượng sản xuất trực tiếp và là điều kiện tiên quyết đến tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất. Như chúng ta đã biết dù trang thiết bị máy móc thôi thì không đủ, vấn đề không kém phần quan trọng là vai trò của con người lao động. Nếu không có lao động sáng tạo của con người thì sẽ không có máy móc thiết bị đó, máy móc thiết bị dù hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật, trình độ sử dụng của người công nhân thì mới phát huy được tác dụng, tránh được lãng phí và hỏng hóc.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, lực lượng lao động của mọi doanh nghiệp tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh tế như. Bằng lao động sáng tạo, mình tạo ra công nghệ mới, thiết bị mới, nguyên vật liệu mới... có hiệu quả hơn trước, cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất, hiệu suất so với trước. Thứ hai lực lượng lao động trực tiếp điều khiển thiết bị máy móc tạo ra kết quả của kinh doanh. Hiệu quả của quá trình này thể hiện việc tận dụng công suất của thiết bị máy móc, tận dụng nguyên vật liệu trực tiếp làm tăng năng suất lao động tăng hiệu quả tại nơi làm việc, lao động có kỷ luật, chấp hành đúng nội quy vô thời hạn, về quá trình kỹ thuật sản xuất sản phẩm, quá trình bảo dưỡng thiết bị máy móc. Vì vậy chăm lo đến việc đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động được coi là nhiệm vụ hàng đầu của nhiều doanh nghiệp. Thực tế cho thấy doanh nghiệp vững mạnh trên thương trường là những doanh nghiệp có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, có tác phong làm việc khoa học và có kỉ luật nghiêm minh.
- Chỉ tiêu về chi phí tiền lương - bảo hiểm tiền lương là sự biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc, mà người lao động cống hiến. Nhằm tái sản xuất sức lao động cho sản xuất, tiền lương là khoản thu nhập mà họ được hưởng. Còn đối với doanh nghiệp tiền lương là khoản chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong quá trình quản lý thì tiền lương là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy người lao động quan tâm đến kết quả sản xuất từ đó nâng cao năng suất lao động của họ.
Để đánh giá tốt hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải hạch toán tiền lương một cách hợp lí, do vậy phải thông qua số lượng chất lượng, thời gian lao động và kết quả lao động thì mới đánh giá đúng khả năng lao động và cũng là căn cứ để trả lương cho họ. Hiện nay ở các doanh nghiệp đa số trả lương theo hai hình thức đó là trả lương theo sản phẩm và trả lương theo thời gian.
Ngoài tiền lương ra cần phải tính đến một khoản chi phí về công tác Bảo hiểm xã hội cho người lao động ở diện trợ cấp. Khoản này được tính theo tiền lương thực tế phát sinh với một tỉ lệ nhất định và cùng với tiền lương được đưa vào chi phí sản xuất hàng tháng để lập quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ này được hình thành từ hai nguồn: Trích vào chi phí sản xuất kinh doanh hàng tháng của đơn vị bằng 15% tiền lương thực tế phải trả và trừ vào lương người lao động 5%.
- Chỉ tiêu về khả năng thanh toán: Từng doanh nghiệp phải xem xét khả năng thanh toán của mình trong tình huống phải thanh toán mọi công nợ. Khả năng thanh toán thể hiện tính chấp hành kỉ luật tài chính và thực lực tài chính của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp chỉ có thể đảm bảo khi doanh nghiệp sản xuất được nhiều sản phẩm khai thác, sử dụng hợp lí vật tư, nguồn lực... Khi phân tích cần sử dụng các tỉ số để thấy được khả năng thanh toán:
- Chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn: thông qua vốn lưu động và vốn cố định để đánh giá khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp. Ta dùng các chỉ số sau để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn:
- Ngoài những chỉ tiêu trên ta thông qua chỉ tiêu về chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố, doanh thu tiêu thụ, khả năng thu chi tài chính... để thấy được doanh nghiệp lỗ lãi ra sao? Nguyên nhân tại sao? Đó chính là vấn đề mà ta cần nghiên cứu trong quá trình phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.