25/05/2018, 14:16

Bộ Cắt (Falconiformes)

Cắt hung (Falco berigora) Theo truyền thống, tất cả các loài chim ăn thịt được nhóm trong 4 họ trong một bộ duy nhất này. Tuy nhiên, tại châu Âu, thông thường người ta chia bộ này thành hai: các ...

Cắt hung (Falco berigora)

Theo truyền thống, tất cả các loài chim ăn thịt được nhóm trong 4 họ trong một bộ duy nhất này. Tuy nhiên, tại châu Âu, thông thường người ta chia bộ này thành hai: các loài cắt và caracara vẫn thuộc bộ Falconiformes (khoảng 60 loài trong 4 nhóm), còn lại khoảng 220 loài (bao gồm họ Accipitridae: đại bàng, ưng, ó, diều và v.v) được đặt trong bộ tách biệt gọi là bộ Ưng (Accipitriformes). Họ tiền sử duy nhất được biết đến từ các hóa thạch là Horusornithidae.

Ý tưởng cho rằng bộ Falconiformes nên được phân chia thành nhiều bộ đến từ gợi ý rằng bộ này có thể không chia sẻ một dòng dõi duy nhất mà nó loại trừ các loài chim khác. Gợi ý gây tranh cãi nhất nhưng được hỗ trợ tốt nhất là rằng họ Kền kền Tân thế giới (Cathartidae) không phải thuộc bộ Falconiformes mà có liên quan tới các loài cò, vạc trong bộ tách biệt là bộ Hạc (Ciconiiformes). Tuy nhiên, chứng cứ hình thái học hỗ trợ tổ tiên chung của bộ Falconiformes, và bộ Cú (Strigiformes) cũng có thể có quan hệ họ hàng rất gần với bộ Falconiformes.

Hiệp hội điểu học Mỹ tạm thời khôi phục các loài kền kền Tân thế giới (họ Cathartidae) vào bộ Falconiformes vào năm 2007. Điều này ngược lại với phân loại Sibley-Ahlquist đầy ảnh hưởng, trong đó tất cả chim ăn thịt được đặt trong bộ Ciconiiformes, nhưng Cathartidae được coi là nằm ngoài dòng dõi bao gồm các loài chim ăn thịt khác. Trong khi điều cuối cùng này có thể chính xác, thì "Ciconiiformes" nghĩa Sibley và Ahlquist là một tổ hợp cận ngành, nhân tạo và là một trong những điểm yếu nhất trong sơ đồ phân loại của họ.

Phân tích nhiễm sắc thể tổ hình (karyotype) chỉ ra rằng kền kền Tân thế giới quả thực là khác biệt, và họ Accipitridae đứng cách xa các loài chim dạng cắt khác ở chỗ các vi nhiễm sắc thể của chúng chỉ ra mức độ cao của sự hợp nhất với các nhiễm sắc thể kích thước trung bình, là độc nhất vô nhị ở các loài chim (de Boer 1975, Amaral & Jorge 2003, Federico et al. 2005). Điều này có đem lại ý nghĩa gì cho tính hợp lệ của bộ Accipitriformes được đề xuất hay không vẫn là vấn đề tranh cãi, nhưng ít nhất nó chứng minh rằng Accipitridae là nhóm đơn ngành.

Một thuyết gần đây dựa trên các nghiên cứu gen cho rằng các loài cắt có quan hệ họ hàng gần hơn với các loài vẹt và sẻ hơn các loài chim khác, kể cả họ Accipitridae, và như thế Falconiformes là không đơn ngành kể cả trong trường hợp họ Cathartidae đã bị loại ra.

Bộ Falconiformes được biết đến từ Trung Eocen (chi có thể là cơ sở Masillaraptor từ mỏ đá Messel). Chúng tiêu biểu có mỏ hình móc sắc nét với da gốc mỏ trên bề mặt đầu gần lưng, chứa các lỗ mũi. Các cánh của chúng dài và khá rộng, thích hợp cho việc bay vút lên, với 4–6 lông cánh sơ cấp có khía phía ngoài.

Bộ Falconiformes có các cẳng và bàn chân khỏe với các vuốt của chim ăn thịt và vuốt sau có thể đặt đối diện. Gần như tất cả các loài trong bộ Falconiformes là chim ăn thịt, săn bắt bằng khả năng nhìn trong thời gian ban ngày hoặc vào lúc tranh tối tranh sáng. Chúng sống lâu, và phần lớn có tốc độ sinh sản thấp.

Chim non có giai đoạn nuôi cho tới khi ra ràng dài, phát triển rất nhanh, tiếp theo là 3–8 tuần chăm sóc tại tổ sau chuyến tập bay đầu tiên, và 1 tới 3 năm để đạt tới độ tuổi thuần thục sinh dục. Các con mái to hơn các con trống. Lưỡng hình giới tính nói chung là tột cùng nhất ở các loài chuyên môn hóa trong việc ăn thịt các loài chim khác, chẳng hạn như các loài ưng thuộc chi Accipiter và các loài cắt thuộc chi Falco, trong đó chim mái có thể nặng hơn 2 lần chim trống; nhưng tính chất này hầu như không có ở các loài kền kền. Chế độ đơn phối ngẫu là quy tắc chung, mặc dù bạn đời thay thế thường được chọn nếu một con bị chết.

Bộ Falconiformes thuộc số các bộ đa dạng nhất khi nói về kích thước. Loài nhỏ nhất được cho là cắt đùi đen (Microhierax fringillarius), với các con trống nhỏ chỉ nặng 28 g (1 oz), dài 14 cm (5,5 inch) và có sải cánh 26 cm (10,3 inch). Loài lớn nhất là đại bàng đầu trọc (Aegypius monachus), nặng tới 14 kg (31 lb), dài 118 cm (46 inch) và sải cánh 3 m (10 ft).

Trên khắp thế giới có khoảng 260-290 loài (tùy theo quan điểm phân loại) còn sinh tồn; đôi khi tất cả các họ ngoại trừ họ Falconidae được tách ra thành bộ Accipitriformes, hoặc họ Cathartidae còn được tách ra thành bộ riêng gọi là Cathartiformes.

  • Accipitridae: 200-225 loài gồm diều (diều hâu, diều mướp, diều lửa v.v), đại bàng, ưng, kền kền Cựu thế giới, ó buteo. Có thể gộp cả họ Pandionidae.
  • Cathartidae?: 7 loài kền kền Tân thế giới, kền kền khoang cổ
  • Falconidae: 60 loài cắt và caracara
  • Pandionidae: 1 loài ưng biển
  • Sagittaridae: 1 loài diều ăn rắn
0