18/06/2018, 12:23

Bình phong Cơ Mật Viện (Tam Tòa)

Cổng trước Cơ Mật Viện, ảnh trường Viễn Đông Bác Cổ năm 1932 1. 1738 - 1801: đây là trung tâm của Thủ phủ các chúa Nguyễn, rồi của Kinh đô nhà Tây Sơn. Theo Lê Qúi Đôn và Quốc Sử Quán triều Nguyễn, năm 1738, chúa ...

 

Cổng trước Cơ Mật Viện, ảnh trường Viễn Đông Bác Cổ năm 1932

1. 1738 - 1801: đây là trung tâm của Thủ phủ các chúa Nguyễn, rồi của Kinh đô nhà Tây Sơn.
Theo Lê Qúi Đôn và Quốc Sử Quán triều Nguyễn, năm 1738, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã dùng khu đất này làm trung tâm để xây dựng Thủ phủ Phú Xuân và hoàn thành vào năm sau đó, gọi là Chính dinh, đến năm 1754 thì gọi là Đô thành. Đô thành Phú Xuân là trung tâm chính trị và văn hóa của Xứ Đàng Trong lúc bấy giờ, nhiều sử sách lúc đó mô tả là một đô thị huy hoàng tráng lệ, được các chúa Nguyễn dùng làm Thủ phủ cho đến năm 1775. Trong thời gian quân Trịnh chiếm đóng ở đây từ năm 1775 đến năm 1786, bộ mặt kiến trúc ở đây không có gì thay đổi đáng kể. Khi Tây Sơn làm chủ Phú Xuân - Thuận Hóa (1786 - 1788), rồi thống nhất đất nước (1788 - 1801), mặc dù Phú Xuân được dùng làm Kinh đô, nhưng tổng thể kiến trúc ở đây vẫn không bị xáo động gì lớn.

2. Đầu thế kỷ XIX: địa điểm này được xây dựng là chỗ ở của Hoàng tử Đảm (sau này trở thành vua Minh Mạng).
Trong những năm đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long (1802 - 1819) cho qui hoạch lại địa bàn Phú Xuân để mở rộng Kinh đô và xây dựng Kinh thành đồ sộ như hiện nay, tất cả các công trình kiến trúc của Đô thành cũ đều bị triệt giải, và khu đất Tam Tòa, được dùng để xây dựng chỗ ở cho Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm, con trai thứ 4 của vua Gia Long. Năm 1816, Hoàng tử Đảm được triều đình chọn làm Hoàng Thái tử (tức là người sẽ được lên nối ngôi). Vị Thái tử này phải chuyển đến ăn ở tại cung Thanh Hòa (ở phía đông ngoài Hoàng thành). Chỗ ở cũ của Thái tử được nhường lại cho Hoàng tử Nguyễn Phúc Chẩn (1803 - 1824), con trai thứ 9 của vua Gia Long. Năm 1817, Hoàng tử Chẩn được phong là Thiệu Hóa Công. Cơ ngơi của ông ở đây được gọi là “công phủ”. Nhưng, ông mất sớm vì bệnh vào năm 1824 giữa lúc mới 22 tuổi. Ông được vua Minh Mạng truy phong là Thiệu Hóa Quận Vương. Ông để lại cơ ngơi này cho người con trai trưởng là Nguyễn Phúc Thiện Khuê.

3. Từ năm 1839- 1899: chùa Giác Hoàng.

Hoàng Thái tử Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi cha vào năm 1820, lấy hiệu là Minh Mạng. Năm 1839, vua Minh Mạng nói rằng: “Đấy là đất lành, nhân đấy mà dựng chùa thờ Phật, cầu phúc lâu dài...”. Nhà vua cấp cho gia đình của cháu mình là Nguyễn Phúc Thiện Khuê một chỗ khác để ở, lấy khu đất ấy để xây dựng một ngôi chùa và đặt tên là chùa Giác Hoàng. Qui mô kiến trúc của chùa này khá lớn. “Nhà chính là điện Đại Hùng 3 gian 2 chái, phía sau là điện Đại Bảo. Trước điện Đại Hùng, tả hữu mỗi bên có 1 nhà 3 gian, rồi đến 1 cái lầu Hộ Pháp. Phía sau, tả hữu có tăng phòng, mỗi cái 5 gian, bên tả lại có nhà bếp 3 gian. Bốn mặt chùa đều xây tường gạch bao bọc”. Nhà vua thấy trước điện Đại Bảo còn lại cái giếng xưa được đào khi nơi đây còn là “tiềm để” của mình, “nước trong mà ngọt”, nên đặt tên là giếng Phương Thanh, và cho xây lại bằng đá thanh, dựng cạnh đó một tấm bia đá ghi tên giếng và xây một bi đình nhỏ để bảo vệ tấm bia. Năm 1843, vua Thiệu Trị đã xếp hạng chùa Giác Hoàng vào danh sách 20 thắng cảnh của đất Thần kinh và vịnh một bài thơ nhan đề là “Giác Hoàng phạm ngữ” để ca ngợi ngôi chùa này. Bài thơ được khắc vào bia đá, dựng ở bên trái cổng chùa và xây nhà bia để che mưa nắng. Khi Kinh đô thất thủ (5 - 7 - 1885) cũng là thời kỳ Việt Nam mất chủ quyền vào tay thực dân Pháp cho nên Nam triều đã cho di chuyển tất cả tượng Phật và đồ thờ ở đây ra chùa Diệu Đế.

4. 1903 - 1945: Viện Cơ Mật.

Trong những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, dưới thời vua Thành Thái (1889 - 1907), là thời kỳ Việt Nam nằm dưới sự bảo hộ của chính phủ Pháp. Sau 60 năm tồn tại các công trình kiến trúc của chùa Giác Hoàn đều bị triệt giải, dành khu đất này để xây dựng Viện Cơ Mật. Năm 1899, Viện Cơ Mật được khởi công xây dựng và hoàn thành năm 1903. Thật ra, Viện Cơ Mật chỉ là tên của công trình kiến trúc chính trong khuôn viên này. Hai bên sân trước, người ta còn xây thêm hai dãy nhà dài để sử dụng vào những công việc khác. Dãy bên phải, từ trong nhìn ra, dùng làm văn phòng của các ông Hội lý người Pháp (Délégué) bên cạnh bộ Hình và bộ Lại của Nam triều. Dãy bên trái là Bảo tàng Kinh tế (Musée Eïconomique). Vì trong khuôn viên có 3 tòa nhà như thế, cho nên, trong dân gian Huế, người ta gọi chung đây là Tam Tòa.
Viện Cơ Mật, tòa nhà chính ở giữa, có hai tầng, là nơi hội họp mỗi tuần 2 lần của Hội đồng Thượng thư Nam triều (Le Conseil des Ministres) dưới sự chủ tọa của viên Khâm sứ Pháp “để thảo luận những vấn đề chung
Còn về Bảo tàng Kinh tế thì đây là nơi trưng bày những sản phẩm động thực vật thuộc loại quí hiếm của Trung Kỳ (Annam) để phục vụ công chúng.
Tư liệu lịch sử cho biết ngoài 3 tòa nhà, ở giữa mặt tiền có xây cổng tam quan và cách một khoảng sau cửa là bức bình phong, một công trình kiến trúc có giá trị về nghệ thuật, đặc biệt là các mô típ hoa văn trang trí.

5. 1945 - 2000: Trụ sở của một số cơ quan công quyền.

Từ năm 1945 đến năm 1954, khu vực Tam Tòa hầu như không được sử dụng vào một công việc gì quan trọng đáng ghi nhận. Từ năm 1955 đến năm 1975, dưới chế độ cũ, hai dãy nhà hai bên trở thành văn phòng của các cơ quan tư pháp địa phương (tỉnh Thừa Thiên và Thành phố Huế), còn tòa nhà chính (Viện Cơ Mật cũ) được dùng làm nơi xét xử các vụ án từ sơ thẩm đến thượng phẩm. Từ năm 1975 đến năm 1976, sau ngày giải phóng, Ủy ban Quân quản Trị Thiên Huế đóng và làm việc tại khu vực này. Từ năm 1976 đến năm 2000, khu vực Tam Tòa là trụ sở của Tỉnh ủy tỉnh Bình Trị Thiên (1976 - 1989), Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên Huế (1989 - 2000).
Trong thời gian Tam Tòa được các cơ quan công quyền nói trên sử dụng, người ta đã phá bỏ bức bình phong, cải tạo tòa nhà chính (bỏ mái trước để xây ban - công và xây thêm 2 phòng lồi, v.v...), xây thêm cột cờ ở giữa sân, tôn tạo cảnh quan, sân vườn, v.v...
Ngày 12 tháng 10 năm 2000, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, tiếp quản khu vực Tam Toà, làm trụ sở từ đó đến nay.
Di tích Tam Tòa, liên quan mật thiết với một số thời kỳ lịch sử, đặc biệt là với các vua chúa và triều đình nhà Nguyễn, cũng như thời kỳ đô hộ cai trị của thực dân Pháp.
 

Mặt trước tòa nhà chính Cơ Mật Viện, hiện nay ảnh Đắc Nghĩa năm 2007.

Vài nét về bức bình phong Tam Toà:
Tư liệu lịch sử và những hình ảnh hiện còn, cho thấy ở phía sau cửa Tam quan, ngay trên trục chính, có một bức bình phong xây bằng gạch và vữa. Ảnh tư liệu cho thấy đây là một bức bình phong khá lớn, được trang trí cực kỳ tỉ mỉ, công phu với nhiều đề tài cổ điển khác nhau: chữ “thọ”, tứ linh, lưỡng long triều nguyệt, long mã, cuốn thư, bút, kiếm, v.v... tọa lạc ở ngay phía trong cổng chính (Tam quan) không xa. Điều đó khẳng định bức bình phong là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị nhiều mặt nằm trong tổng thể các công trình kiến trúc được xây dựng ở khu vực Tam Toà. Đó là sự kế thừa và tiếp thu có chọn lọc, chuẩn mực, hài hoà giữa hai phong cách kiến trúc truyền thống Việt nam và kiến trúc Pháp (châu Âu), giữa truyền thống và hiện đại, thể hiện ý thức, sự trân trọng gìn giữ bản sắc dân tộc, những giá trị truyền thống của cha ông. Với hơn một trăm năm tồn tại, tổng thể các công trình kiến trúc trong khu vực di tích Tam Toà, trong đó có bức bình phong, chẳng những không bị lạc hậu mà ngược lại càng tôn thêm vẻ đẹp, nét độc đáo cho kinh thành Huế - Cố đô  Huế, khẳng định những giá trị trường tồn của một công trình kiến trúc cùng  những giá trị tinh thần, lịch sử, văn hoá nghệ thuật…mà bản thân công trình để lại cho thế hệ tương lai. Những biến động của lịch sử đã làm cho bức bình phong không còn nữa để lại một khoảng trống, sự mất cân đối trong tổng thể kiến trúc ở Tam Toà, làm ảnh hưởng đến các giá trị văn hoá nghệ thuật, phong thuỷ, tâm linh của một di tích lịch sử - kiến trúc độc đáo. Đây thực sự là một mất mát lớn cần sớm được khắc phục. Kết quả thăm dò khảo cổ học (8/2009) đã khẳng định nền móng xuất lộ phía sau cổng Tam quan, là móng của của bức bình phong được xây cùng thời với Viện Cơ Mật (1899 – 1903).
Trong khi chúng ta chưa có đủ điều kiện để tổ chức tu bổ cùng một lúc nhiều hạng mục kiến trúc trong khu vực di tích Tam toà, thì chủ trương tu bổ những hạng mục như toà nhà chính Viện Cơ Mật năm 2005, cổng Tam Quan năm 2007, và phục hồi bình phong năm 2009, là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, khoa học và nghiêm túc là những suy nghĩ trăn trở, tâm huyết, trách nhiệm của những người đang quản lý, bảo vệ di sản, đang sống và làm việc trên di sản. Việc làm có ý nghĩa sâu sắc, thật đáng trân trọng, thể hiện thái độ ứng xử nhân văn là vinh dự đồng thời cũng là trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, cán bộ Trung Tâm Bảo Tồn Di tích Cố đô Huế, những chủ thể đang ngày đêm quản lý, gìn giữ, bảo vệ, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần của một di sản Văn hoá nhân loại - Quần thể di tích Cố đô Huế - Di tích quốc gia đặc biệt vừa được Thủ tướng chính phủ ra quyết định công nhận. Đó cũng là việc làm thiết thực, hưởng ứng kết luận 48/KL –TW, ngày 25 tháng 5 năm 2009 của Bộ Chính trị “về xây dựng, phát triển tỉnh T.T.Huế và đô thị Huế đến năm 2020”. Đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên Huế, xứng đáng là thành phố thành phố Festival đặc trưng của Việt nam, Trung tâm Văn hoá – du lịch của cả nước…
Hy vọng rằng với quyết tâm đó trong một thời gian sớm nhất, bình phong Tam toà sẽ được phục hồi, trả lại những giá trị đích thực của một di tích cấp quốc gia.

                           
Huế, tháng 8 năm 2009

0