Bình giảng đoạn thơ trong tác phẩm Bếp Lửa của Bằng Việt
Một bếp lửa chần vần sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm ...Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đổng xa? Bài làm Có một thời gian khổ mà không thể nào quên. Có những người đã gắn bó với tuổi thơ chúng ta, trở thành kỉ niệm, mang theo bao ...
Một bếp lửa chần vần sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm ...Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đổng xa?
Bài làm
Có một thời gian khổ mà không thể nào quên. Có những người đã gắn bó với tuổi thơ chúng ta, trở thành kỉ niệm, mang theo bao tinh thương nỗi nhớ sâu nặng trong lòng ta. Bài thơ ‘Bếp lửa’ của Bằng Việt với hình ảnh người bà đã đem đến cho ta cảm xúc và nỗi niềm bâng khuâng ấy:
‘Một bếp lửa chần vần sương sớm ... Kêu chi hoai trên những cánh đổng xa ‘
Đây là phần đầu bài thơ ‘Bếp lửa’ nói lên những kỉ niệm sâu sắc tuổi thơ với bao tinh thương nhớ bà của đứa cháu đi xa.
Tràn ngập bài thơ, đoạn thơ là một tinh thương nhớ mênh mông, bồi hồi. Ba câu thơ đầu nói lên hai nỗi nhớ: nhớ bếp lửa, nhớ thương bà. Bếp lửa ‘chờn vần sương sớm’ gắn bó với mỏi gia đinh Việt Nam, với sự tần tảo chịu thương chịu khó của bà. Bếp lửa ‘ấp iu nồng đượm’ được nhen nhóm bằng sự nâng niu, ôm ấp của tình thương. Nhớ bếp lửa là nhớ đến bà ‘biết may nắngmua’, trải qua nhiều vất vả, khó nhọc. Điệp ngữ ‘một Bếp lửa’kết hợp với câu cảm thán làm cho giọng thơ bổi hổi xúc động:
‘Một Bếp lửa chần vần sương sớm Một Bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mua.’
Khổ thơ thứ hai nói về kỉ niệm tuổi thơ, kỉ niệm buồn khó quên: ‘nám đói mòn đói mỏi’, ‘khô rạc ngựa gầy’, ‘khói hun nhèm mắt chầu’, ‘sống mũi còn cay’. Bằng Việt sinh năm 1941, năm nhà thơ lên 4 tuổi, là cuối năm 1944 đầu năm 1945, nạn chết đói kinh khủng đã xảy ra, hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói. Đó là kỉ niệm về ‘mùi khói’, về ‘khói him’, một cảnh đời nghèo khổ gắn liền với bếp lửa gia đinh trước cách mạng. Vần thơ là tiếng lòng thời thơ ấu gian khổ, rất chân thực cảm động: ‘Lên bấn tuổi, chầu đa quen mùi khói Nắm ấy là nám đói mòn, đói mỏi Bô đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khỏi hun nhem mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sông mũi còn cay!’
‘Nghĩ lại đengiờ’ đó là năm 1963, đã 19 năm trôi qua, mà đứa cháu vẫn cảm thấy ‘sống mũi còn cay!’. Kĩ niệm buồn, vết thương lòng, khó quên là vậy!
Khổ thơ thứ ba nói vế việc nhóm lừa suốt một thời gian dài 8 năm của hai bà cháu. Có tiếng chim tu hú kêu gọi mùa lúa chín trên những cánh đồng quê, Tiếng chim tu hú, những chuyện kể của bà vế Huế thân yêu đã trở thành ki niệm. 'Tu hú kêu..’, ‘khi tu hu kêu...’, ’biếng tu hú’... cái âm thanh đổng quê thân thuộc ấy được nhác đi nhắc lại nhiều lần càng trở nên tha thiết bổi hồi. Đó là tiếng vọng thời gian năm tháng của ki niệm về gia đình (bếp lửa), về quê hương (tiếng chim tu hú) yêu thương. Cháu thầm hòi bà hay tự hỏi lòng mình về một thời xa vắng:
'Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lần Tu hu kêu trẽn những cánh đồng xa Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!’
‘Cháu cùng bà nhóm lần’,nhóm lừa của sự sống, nhóm ngọn lửa của tình thương.
Tám năm ấy, đất nước có chiến tranh ‘Mẹ cùng cần bận công tác không về’, cháu ở cùng bà, cháu lớn lên trong tình thương và sự chăm sóc nuôi dưỡng của bà. Hai câu thơ 16 chữ mà chữ bà, chữ cháu đã chiếm đúng một nửa. Ngôn từ đã hội tụ tất cả tình thương của bà dành cho cháu. Một tình thương áp ủ, chở che:
‘Cháu ở cung bà, bà báo cháu nghe Bá dạy cháu làm, bá chăm cháu học.’
Hay nhất, hàm súc nhất là từ ngỡ: ‘cháu ở cung bà’, ‘bà báo’, ‘bà dạy’, ‘bà chăm’. Vai trò người bà trong mỗi gia đình Việt Nam thật vô cùng to lớn. Năm tháng đã trôi qua thế mà bà vẫn ‘khó nhọc’ vất vả ‘nhóm bếp lửa’. Nghĩ về ngọn lửa hổng của bếp lửa, nghĩ về tiếng chim tu hú gọi bầy, đứa cháu gọi nhắn thiết tha chim tu hú ‘kêu chi hoài’. Câu thơ cảm thán và câu hỏi tu từ diễn tả nỗi thương nhớ bà bổi hồi tha thiết. Cảm xúc cứ trào lên:
‘Nhómbếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hu ơi ! Chang đến ở cùng bà
kêu chi hoài trên những cánh đống xa?’
Năm chữ ‘nghĩ thương bà khó nhọc’ nói lên lòng biết ơn bà của đứa cháu đã và đang mang năng trong trái tim mình tình thương của bà dành cho.
Đoạn thơ đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ và dào dạt cảm xúc. Cháu thương nhớ và biết ơn bà khống bao giờ quên. Bảng thể thơ tự do 8 từ (có xen 7 từ), tác giả đã tạo nên một giọng thơ thiết tha, chát thơ trong sáng truyền cảm, hình tượng đẹp. Bếp lửa, tiếng chim tu hú, người bà là 3 hình tượng hòa quyện trong tâm hổn đứa cháu xa quê. Ở đây, tình thương nhớ bà gắn liền với tình yêu quê hương. Câu thơ của Bằng Việt có một sức lay, sức gợi ghê gớm!