25/05/2018, 16:13

Biến nỗi sợ hãi thành đồng minh, biến nghịch cảnh thành người thầy

Sau khi chia tay bác sĩ Wellington, Charlie trở về nhà và hoàn thiện cái Kim Tự Tháp Nội Lực của mình. Với những điều thú vị thu thập được từ chuyến đi đến Grand Canyon với Mitch Matsui và trong lúc thực hành thôi miên với bác sĩ Wellington, Charlie đã đạt tới ...

Sau khi chia tay bác sĩ Wellington, Charlie trở về nhà và hoàn thiện cái Kim Tự Tháp Nội Lực của mình. Với những điều thú vị thu thập được từ chuyến đi đến Grand Canyon với Mitch Matsui và trong lúc thực hành thôi miên với bác sĩ Wellington, Charlie đã đạt tới một mức độ rõ ràng trong tư tưởng mà trước đây anh không thể tiếp cận được. Ngay lúc này, anh đã có thể góp nhặt và chắt lọc được nguồn tư tưởng về mục đích và phương hướng trên một trang giấy. Chính mục đích và phương hướng đã định hướng cho anh làm rõ hơn những kí ức về tương lai của chính mình. Charlie cầm những gì mình đã viết lên và bắt đầu đọc lại.

Dưới đáy “Kim tự tháp Nội Lực – NHẬN DẠNG (IDENTITY) - đã gây ngạc nhiên lớn. Con người thật của anh hoàn toàn mâu thuẫn với con người trong công việc - một nhà tư vấn kinh doanh và nhân viên doanh nghiệp. Thật ra cứ theo đuổi con đường đó anh luôn gặp thất bại. Bây giờ anh nhận ra rằng con người đích thực của mình giống với một chiến sĩ thập tự chinh và nhà khởi nghiệp hơn nhiều. Anh rùng mình khi nhận ra sự thật tệ hại rằng mình đã tự bóp méo con người thật sự của mình để nhốt nó vào một không gian nhỏ hẹp ở LPI.

Vào ngày mà Charlie bắt đầu làm việc với phần giữa của Kim Tự Tháp Nội Lực - SỨ MỆNH (MISSION), anh vô tình đọc được bài viết “Chấm dứt ở tuổi 40” trên trang nhất của tạp chí Fortun. Bài báo viết về những người có cuộc sống giống như anh, khi họ đến giai đoạn của sự nghiệp mà đáng lẽ là những năm đỉnh cao thu nhập thì lại bị công ty đào thải. Mỉa mai thay, Charlie lại không cảm thấy đồng cảm với những lời than phiền vô vị về cách mà mọi người lo lắng về nhà cao cửa rộng, xe hơi sang trọng , tiền lương mấy trăm nghìn đô, và những kế hoạch tiết kiệm hưu trí của họ. Anh nghĩ nếu bớt ngồi than vãn về những suy giảm nhất thời về chất lượng cuộc sống của họ và dành thêm thời gian để tìm ra những điều mà họ có thể cống hiến thật sự thì họ sẽ hạnh phú hơn rất nhiều. Về lâu về dài, họ có thể sẽ có một cuộc sống phong phú, giàu có hơn. Những con người này cần được trợ giúp từ một nhóm người, Charlie nghĩ, họ thật sự cần một chương trình có tổ chức tốt để được đào tạo về những kỹ năng cần thiết, và củng cố thêm sự can đảm để buông đi quá khứ, ngừng lo lắng về tiền bạc và địa vị, để đầu tư vào những suy nghĩ táo bạo, những ước mơ lớn hơn và cách để đạt được những thành quả lớn. Theo Charlie biết, vào thời điểm đó, những tổ chức như vậy không tồn tại. Anh thầm nghĩ liệu anh có khả năng xây dựng một doanh nghiệp thành công dựa trên việc tạo ra những chương trình như trên hay không. Nó hoàn toàn phù hợp với những gì mà anh tự khám phá trong chính bản thân mình. Anh bắt đầu đặt bút viết, và sau vài bản nháp, anh đã có một tuyên bố sứ mệnh hết sức riêng:

Sứ mệnh của tôi là xây dựng một tổ chức toàn cầu có khả năng cung cấp cho mọi người những công cụ và nguồn tài nguyên để giúp đỡ họ tìm ra được những ý nghĩa tốt đẹp và làm giàu cuộc sống của chính họ và những người khác.”

 Charlie biết là anh đã đi đúng hướng khi anh chia sẻ chuyện này với Pam và cô ấy đã mỉm cười và ôm anh thật chặt. “Cứ đi tìm những ý nghĩa thật sự của cuộc sống, và sự giàu có sẽ tự tìm đến”, sự tự tin trong lời nói của Pam còn lớn hơn nhiều so với những gì Charlie tự cảm nhận. Sứ mệnh đó làm anh phấn khởi đến nỗi anh đã cắm cúi trong nhiều giờ đồng hồ liền sau đó để tìm ra phương hướng hành động:

“Thế giới này sẽ ra sao nếu tôi được là chính tôi, và nhiệt thành theo đuổi ước mơ và sứ mệnh của chính mình trong cuộc sống này?”

Như bác sĩ Wellington đã đề cập đến chuyện này, mỗi lần anh cố gắng mường tượng viễn cảnh về một tương lai tốt đẹp, thì hàng ngàn những suy nghĩ nghi ngờ lập tức trỗi dậy, như cỏ dại mọc không thể kiểm soát được. Anh đã phải dùng đến "máy cắt cỏ", đây là lần đầu tiên anh sử dụng một công cụ mà Wellington đã đưa cho anh, và anh không thể không ngạc nhiên về tính hiệu quả của nó. Những hình ảnh đã bắt đầu chạy qua trong đầu anh một cách suôn sẻ hơn, hết cái này đến cái khác. Trong tâm trí của mình, anh nhìn thấy được cả một bộ danh mục với các loại sản phẩm hữu ích với anh trong nhiều tuần qua, như là “Người dọn dẹp căn gác mái của bạn” và “Kim Tự Tháp Nội Lực”. Charlie hình dung từng nhóm người gặp nhau hàng tuần, trên khắp đất nước, hỗ trợ và động viên lẫn nhau – và theo định kỳ, mọi người lại tề tựu với nhau ở một hội nghị lớn. Và với nền tảng kỹ thuật vững chắc từ LPI, anh cũng nhìn thấy được vai trò quan trọng của những chương trình qua internet.

Rất nhanh, tầm nhìn của anh đã vươn xa đến mức đám cỏ dại không thể mọc theo kịp. Charlie tự thấy mình dẫn những nhóm nhỏ đến những nơi tuyệt vời như là Grand Canyon, giống như Mitch Matsui đã làm vài tháng trước. Những chuyến đạp xe xuyên quốc gia, những chương trình cho thanh niên, những đại hội khởi nghiệp, những hội trại mùa hè – Charlie mỉm cười khi nghĩ rằng Spike sẽ phải đóng thêm một kệ mới trên tầng áp mái chỉ để giữ tất cả các hộp mới chứa đầy ý tưởng. Đầu anh tràn ngập ý tưởng, tuy nhiên, những bước hành động ban đầu đã trở nên rõ ràng hơn. Charlie sẽ cần sự giúp đỡ, và anh sẽ cần đến tiền.

Nên bây giờ, anh đang đứng trước cửa ngân hàng. Từ lúc sáng sớm, anh đã ký một thoả thuận cấp phép với bác sĩ Wellington để phát triển một chuỗi những sản phẩm xoay quanh chủ đề “Người dọn dẹp căn gác mái của bạn”, và thành lập công ty, tên là The Courage Place, Inc. (Nơi tạo ra sự can đảm), tại văn phòng luật sư của anh. Vài phút trước, Charlie vừa ký một khoản tiền vay lớn nhất từ trước tới giờ, thế chấp toàn bộ tài sản cá nhân của mình. Đột nhiên anh cảm thấy như mình đang rơi tuột xuống một hẻm núi rất dốc trên một cặp ván trượt. Không có điểm dừng, và không thể quay trở lại. Cảm giác đó thật kích động, nhưng cũng thật đáng sợ.

Charlie không có thêm cuộc hẹn nào nữa trong ngày hôm nay, mặt trời toả sáng, và Pam đã dẫn bọn trẻ đến buổi diễn tập hoà nhạc giao hưởng để dạy chúng về văn hoá, sau khi đã hứa là sẽ mua cho chúng pizza và kem sau đó, vì thế, anh ta quyết định đi dạo một vòng. Có một cảm giác nào đó kéo anh về bên phải, Charlie đi xuống đường. Qua một vài toà nhà, anh lại có cảm giác bị kéo mạnh về bên trái, và anh đi theo. Sau một vài ngã rẽ, anh nhận thấy mình đang đi về hướng của Phòng tập trung tâm Downtown Gym, do bạn cũ của anh la Nick Amatuzzo làm chủ.

Nick từng là một đấu sĩ chuyên nghiệp đoạt giải vô địch. Anh ta cũng từng nghiện rượu và ma tuý. Anh ta đã nếm đủ mùi lên voi xuống chó của cuộc đời. Trong hai mươi năm qua, anh ta đã bỏ hết tâm huyết vào phòng tập Downtown Gym. Nó được khởi đầu như là một nơi trú ẩn cho những đứa trẻ lầm lỡ, nếu không có nơi đây có thể chúng sẽ mắc kẹt với những băng nhóm tội phạm cả đời, nhưng dần dần trở thành câu lạc bộ giải trí và luyện tập thể hình nổi tiếng nhất trong thành phố. Mặc dù trở nên nổi tiếng và thành công như hiện tại, Nick vẫn không quên được bài học mà anh ta đã đối mặt trong những lúc khó khăn, và anh ta đã không quên lời hứa với bọn trẻ.

Khi đi vong qua góc đường, Charlie nhìn thấy một bảng hiệu lớn ở cửa trước của phòng tập – và cái thông điệp đã kéo anh đến phòng tập này lần đầu tiên, cách đây nhiều năm, là:

“Hãy biến nỗi sợ hãi của bạn thành đồng minh, biến nghịch cảnh thành người thầy”

Charlie nhìn thấy Nick đi thơ thẩn trong phòng tập, nói chuyện với khách hàng để đảm bảo mọi việc đều ổn. Anh biết chắc là sẽ được đón tiếp nồng nhiệt ở đây. Họ không chỉ là bạn tốt với nhau, mà Charlie và Pam còn là một trong những nhà mạnh thường quân hào phóng nhất của phòng tập từ lúc mới hoạt động. Pam thậm chí còn đón bọn trẻ chỗ Nick sau giờ học và đưa chúng đến phòng tập.

Charlie chờ ở quầy tiếp tân và quan sát Nick đi vòng quanh phòng tập tạ. Charlie không thể nhận ra nhiều người ở đó, nhưng có vẻ Nick quen biết hết mọi người. Anh ta dừng lại khá lâu bên một anh chàng trẻ tuổi đang cố gắng nâng một thanh tạ đòn mà Charlie đoán là có thể nặng bằng một chiếc xe Volkswagen. Nick hét lớn, cổ vũ người thanh niên đó. Sau khi hoàn thành lần nâng cuối và đưa thanh tạ về đúng chỗ, người thanh niên trẻ đứng dậy và Charlie nhận ra đó là Bill Duffey, một trong cậu bé mà Pam từng đón sau những buổi học ở trường. Duffrey là một trong những câu chuyện thành công của Nick, anh ta đã tốt nghiệp từ trường Saint Johns và hiện đang làm việc trong bộ phận tín dụng ở một ngân hàng có tiếng nhất trong thành phố - chính là ngân hàng mà Nick đã thế chấp hết tất cả tài sản của mình vào sáng nay.

Cuối cùng thì Nick cũng nhìn thấy Charlie và bước đến. “Anh trông có vẻ phát tướng nha, toàn mỡ ở đây này, kẹo dẻo ạ”, Nick nói đùa, chọc vào mạng sườn của Charlie. “Đồ tập của anh đâu? Ngoài kia có một chiếc xe đạp địa hình dành riêng cho anh đấy. Anh có biết ông già Teddy R. (*) đã từng nói sao không? Thà dùng cho mòn luôn còn hơn là để cho rỉ sét.”

“Không phải hôm nay, Nick. Tôi hứa sẽ đến vào cuối tuần. Nhưng nếu anh có chút thời gian, tôi có một chuyện quan trọng rất muốn chia sẻ với anh.”

 Ngay lập tức Nick lo lắng và hỏi dồn “Mọi chuyện ở nhà đều ổn hả Charlie, Pam và bọn trẻ?”

“Ừ, Nick, mọi việc đều ổn. Chuyện này liên quan đến công việc. Như anh biết đó, tôi bị mất việc, không còn làm cho LPI nữa.”

“Tệ thật, tôi chưa nghe gì cả. Cách đây bao lâu rồi?”

“Sáu tuần rồi.”

“Hmmm”. Nick gãi gãi gò má lởm chởm râu và nhìn xuống sàn nhà. “Trở lại lực lượng lao động à? Đó là điều đã xảy ra với hầu hết những kẻ đang tập ở đây bây giờ."

“Thật sao?” Charlie đoán là có ít nhất khoảng năm mươi người đang tập trong phòng nâng tạ và trên những máy tập thể hình ở đằng kia.

“Ừ, nhìn đồng hồ đi.” Charlie nhìn vào khoảng tường phía sau quầy thanh toán. Đã 3 giơ 15 phút chiều. “Một, hai năm trước, hầu hết những anh chàng này đều làm việc cho công ty nào đó ở trung tâm thành phố. Rồi một ngày, Bang!” Nick đập mạnh bàn tay phải vào lòng bàn tay trái để nhấn mạnh một điều, “tụi nó bị sa thải và trở lại lực lượng lao động.”

Charlie lắc đầu. “Ý anh nói là họ không còn làm việc nữa phải không?”

Nick cười lớn. “Không, không hề! Những gì mà tụi nó làm có phải là công việc thật sự đâu. Tụi nó chỉ ngồi trong những buổi họp hành tẻ nhạt, viết bản ghi nhớ, nói chuyện điện thoại. Giờ tụi nó phải đối diện với sự thật là không còn ai sẽ trả tiền cho tụi nó làm những việc như vậy nữa. Tụi nó hoặc là sẽ chết đói, hoặc là sẽ phải tạo ra một cái gì đó mà người khác muốn và bán cho người ta để kiếm tiền.”

Nick nhìn vào phòng tập và lắc đầu. “Hãy nhìn tụi nó đi Charlie, tất cả đều to lớn và lực lưỡng như những vị thần Hy Lạp. Nhưng anh biết không, tận sâu trong tâm hồn, tụi nó đều sợ chết khiếp.”

Giờ thì Charlie cười lớn. “Tôi cũng vậy, Nick. Bị quăng ra khỏi nơi an toàn và rơi vào một môi trường mới, khó khăn hơn là một điều kinh khủng nhất mà tôi đã trải qua.”

Nick choàng tay qua vai của Charlie và bước ngược về quầy tiếp tân để đến văn phòng của Nick. Mặc dù đã hơn hai mươi năm từ lúc anh còn tham gia thi đấu, anh ấy vẫn chắc khỏe như thép. Charlie cho rằng nếu phải đấu trực tiếp với Nick trên võ đài thì điều đó còn dễ sợ hơn bất kỳ trận đấu tranh chấp nào khác trên thị trường.

Một bên tường trong văn phòng của Nick treo đầy những bức ảnh của những võ sĩ nổi tiếng. Hầu hết các bức ảnh đều chụp vào những khoảnh khắc mà họ bắt tay với Nick. Họ bao gồm Dempsey, Ali, Hagler, cả Sugar Rays, Forman và Fraser, và nhiều người khác nữa mà Charlie không nhận ra. Tuy nhiên, ở một nơi trang trọng khác đằng sau bàn làm việc của Nick, là hình ảnh của những người không nổi tiếng lắm, nhưng luôn nằm trong tim của Nick: đó là những thanh niên mà anh ta giúp đỡ, nuôi dưỡng từ những trại giáo dục vị thành niên. Không cần phải hỏi Charlie nếu anh ta muốn một cốc cà phê, Nick đã rót cho cả hai người khi hai người ngồi xuống bàn để tiếp tục câu chuyện. “Nick, càng già càng yếu ha,” Charlie mỉa mai. “Dùng ghế thật rồi à?” Vào những ngày đầu, văn phòng của Nick được thiết kế trông như một vòng đấu quyền anh, gồm nhiều đai ốc siết ở mọi ngóc ngách, và không có gì để ngồi ngoại trừ những cái ghế nhỏ không lưng dựa như ghế các võ sĩ hay ngồi nghỉ giữa các vòng đấu.

“Phải thay đổi vì bọn trẻ”, Nick đáp lời. “Chúng đi tham quan phòng tập một vòng và chúng đã sẵn sàng đăng ký. Và rồi khi chúng quay trở lại phòng này, ngồi vào những chiếc ghế kiểu quyền anh làm chúng trở nên hồi hộp, lo lắng, muốn quay trở về nhà và suy nghĩ thật cẩn thận. Chẳng bao lâu sau thì phát hiện ra là chúng qua đăng ký tại Pink Slipper Boutique.” Nick đang nói tới đối thủ cạnh tranh của anh ở đầu kia thành phố, chỗ đó nhắm đến những người yếu đuối hơn “Anh đang nghĩ gì thế, Charlie?”

Charlie uống một ngụm cà phê đậm đặc kiểu công nghiệp và bắt đầu nói. “Tôi vừa quyết định sẽ thành lập một công ty kinh doanh của riêng mình, Nick. Anh có biết Cheryl von Noyes không?” Nick gật đầu. “Cô ấy đã từng nói từ công việc (J-O-B) là viết tắt của ba từ: Bội bạc (Jilted), Lỗi thời (Obsolete), và Khánh kiệt (Broke). Tôi không bao giờ muốn lâm vào tình cảnh đó thêm một lần nào nữa, vì thế tôi sẽ tự định đoạt số phận của chính mình. Công ty của tôi được thành lập vào hôm nay. Tôi đặt tên công ty là The Courage Place. Tôi vẫn còn đang suy nghĩ thêm về chi tiết, nhưng nó sẽ là một tổ chức gồm nhiều thành viên vừa mang tính hỗ trợ, vừa mang tính đào tạo và có cả phiêu lưu mạo hiểm cùng với nhau.”

“Nghe tuyệt đấy, Charlie!” Nick hét lên vui sướng. “Trời ơi, tôi cá với anh là nếu chúng ta ra phòng tập ngay bây giờ là có thể ghi danh được liền năm mươi người. Anh còn điều gì lo lắng nữa?”

Charlie thổi nhẹ vào cốc cà phê. “Vấn đề là tôi sợ chết khiếp.”

Nick cười rõ to đến rung cả tường và trần nhà. “Quá tốt, Charlie, phải nói là quá tốt. Thà là sợ sệt còn hơn là ngu dốt! Hầu hết những lần tôi đứng trên võ đài,” và Nick chỉ vào một tấm áp phích cũ in hình một võ đài chồng lên hình của Nick với một đối thủ đã bị lãng quên từ lâu, “Tôi đã rất sợ. Tôi chưa bao giờ đuổi được nỗi sợ hãi ra khỏi tâm trí, nên tôi đành làm bạn với nó. Ngay khi nó xuất hiện xung quanh, tôi nghĩ là ít nhất tôi sẽ dùng nỗi sợ hãi vào việc gì có ích. Và tôi đã làm. Tôi đã biến nỗi sợ hãi thành đồng minh.”

Charlie chưa từng thấy Nick ngồi yên một chỗ được vài phút, và hôm nay cũng không phải ngoại lệ. Anh ta đứng dậy và đấu quyền anh với một đối thủ tưởng tượng, tung ra một cú đấm tổng hợp trái-phải-trái, rồi kết thúc bằng một quả đấm móc gọn mắt. “Nỗi sợ hãi là một đối thủ nặng kí, Charlie. Đối thủ của tôi không còn đáng gờm như trước nữa, nhưng nó vẫn hiện diện ở đó. Mỗi ngày. Mỗi lần kế toán của tôi bước qua canh cửa chính. Mỗi lần Pink Slipper bắt đầu một chiến dịch mới. Nỗi sợ hãi vẫn hiện diện ở đó, cho tôi biết rằng cuộc chiến này chưa bao giờ kết thúc, và chính vì thế, tốt hơn hết là tôi không được chủ quan.”

“Anh đã làm như thế nào?” Charlie hỏi. “Làm bạn với những nỗi sợ hãi? Làm thế nào để anh biến nghịch cảnh thành người thầy của mình? Nếu chúng luôn hiện diện trong mọi cuộc chiến, tôi chắc chắn sẽ muốn chúng về phía mình.”

Nick khoanh tay lại và nhìn về hướng cửa chính. “Anh đã tìm ra được lời giải cho phần khó khăn nhất rồi, khá hơn nhiều so với những kẻ lực lưỡng ngoài kia.”

Charlie lắc đầu. “Tôi không hiểu những gì anh nói, Nick.”

“Anh đã từng thấy những đứa trẻ trâu ngoài kia mặc những chiếc áo t-shirt có in cụm từ Không sợ hãi chưa?”. Charlie gật đầu, và Nick đáp lại bằng một cái khịt mũi có vẻ khinh thường. “Không biết sợ nghĩa là không có dũng khí. Một kẻ không sợ hãi có thể liều lĩnh, nhưng họ không dũng cảm. Không sợ hãi, không có dũng khí. Càng sợ hãi tột cùng, lòng can đảm sẽ càng được hun đúc!”

Nick lại ngồi xuống, và uống thêm một ngụm cà phê. “Ngay từ những phút đầu tiên trong sự nghiệp đầy trắc trở của tôi, tôi đã tìm ra một công thức của riêng mình trong việc biến những nỗi sợ hãi thành đồng minh và nghịch cảnh thành người thầy. Tôi chia sẻ công thức đó với những bạn trẻ tuổi này khi họ đến tham gia câu lạc bộ này. Tôi đã cố gắng thuyết phục hệ thống giáo dục địa phương đưa ý tưởng này vào trong chương trình dạy học, bởi vì hiện nay có quá nhiều đứa trẻ lo sợ với nhiều thứ, và không có ai chỉ dạy chúng làm sao để đối phó với những khó khăn này.” Nick lắc đầu và đứng bật dậy khỏi ghế. “Bọn họ cười vào mặt tôi, và bảo đó không phải là việc của họ. Nhưng họ đã lầm; đó mới thật sự là công việc của họ.”

Nick cầm một quyển sách trên bàn làm việc của anh ta lên và quăng nó lên cái bàn trước mặt Charlie. “Anh đã đọc quyển này chưa?” Charlie lắc đầu. “À, anh nên đọc nó đi. Nó sẽ dạy cho anh cách để lo lắng một cách khôn ngoan hơn.” Charlie cầm quyển sách lên và đọc trên bìa của cuốn sách – Lo lắng, do Edward R. Hallowell viết. “Anh có biết ông ta nói cái nào tệ hại nhất trong tất cả các khuyết tật về khả năng học hỏi không? Tệ hơn cả chứng khó đọc, tệ hơn cả chứng rối loạn mất tập trung?” Charlie lắc đầu. “Chính là sự sợ hãi. Khi anh lo lắng, sợ sệt về một vấn đề gì đó, anh sẽ không tập trung để học nó được. Sự sợ hãi và tò mò loại trừ lẫn nhau. Tôi đảm bảo với anh điều này, chúng ta sẽ giảm thiểu được số lượng trẻ hư, nếu như nhà trường dạy chúng về lòng can đảm và sự kiên trì cùng với ba điều bắt đầu bằng chữ R (**) . Đó là lý do tại sao tôi luôn yêu cầu những đứa trẻ của tôi phải ghi nhớ Cam kết tăng cường nội lực. Lúc đầu chúng nó phàn nàn, nhưng nhiều năm sau đó, chúng nó nói với tôi đó chính là điều quan trọng nhất mà chúng nó từng làm.” Nick đi đến cái bàn ở góc phòng và trở lại với một miếng thẻ và đưa cho Charlie. “Ghi nhớ những lời hứa này, Charlie, hấp thụ nó, và giữ nó lại như một phần con người của anh. Mỗi ngày, anh hãy hứa với bản thân mình là anh sẽ thực hiện nó cho đến khi anh giữ được lời hứa đó. Đó là cách mà anh tự trao khả năng cho mình mà không ai có thể lấy đi mất được.”

Cam kết tăng cường nội lực

Lời hứa ngày Thứ Hai: Trách nhiệm

Tôi sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về sức khỏe, hạnh phúc, thành công, và cuộc sống của chính tôi, và tôi sẽ không đổ lỗi cho bất kỳ ai về những tình huống khó khăn, trắc trở của mình.

Lời hứa ngày Thứ Ba: Tinh thần trách nhiệm

Tôi sẽ không cho phép mình hạ thấp lòng tự trọng và những suy nghĩ giới hạn bản thân, hoặc sự tiêu cực từ người khác ngăn cản mình đạt được những mục tiêu và trở thành người mà tôi mong muốn.

Lời hứa ngày Thứ Tư: Quyết tâm

Tôi sẽ làm những điều mà tôi dù e ngại, nhưng biết rằng những điều đó đáng thực hiện. Thỉnh thoảng điều này cũng bao gồm kêu gọi sự giúp đỡ để thực hiện những điều mà tôi không thể làm một mình.

Lời hứa ngày Thứ Năm: Sự cống hiến

Bằng cách cố gắng giúp đỡ mọi người ngay từ bây giờ, tôi sẽ xứng đáng nhận được sự giúp đỡ từ người khác vào những lúc mà tôi cần. Và tôi sẽ trả ơn những sự giúp đỡ đó bằng việc giúp đỡ người khác trong tương lai.

Lời hứa ngày Thứ Sáu: Sự kiên cường

Tôi sẽ đối mặt với sự chối bỏ và thất bại với lòng dũng cảm, sự nhận thức, và kiên trì, biến chúng thành nền tảng cho thành công trong tương lai.

Lời hứa ngày Thứ Bảy: Quan điểm

Tôi sẽ luôn có niềm tin rằng, mặc dù tôi không hiểu tại sao nghịch cảnh lại xảy ra, nhưng trong thâm tâm mình, tôi luôn tìm được sức mạnh, lòng trắc ẩn, và sự khoan dung trong suốt quá trình thử thách.

Lời hứa ngày Chủ Nhật: Niềm tin

Niềm tin và lòng biết ơn cho tất cả những gì mà tôi đang được hưởng sẽ soi đường cho mọi thái độ và hành động của tôi.

Nick lại ngồi xuống khi Charlie đọc bảy lời hứa này, chỉ vào lúc này anh mới kéo ghế lại gần bàn để báo hiệu anh sẽ ngồi yên một lúc lâu. Kéo một miếng giấy màu vàng lại gần, Nick phác thảo một hình vuông và một hình kim cương. “Một điều mà an không bao giờ được đánh mất, đó là hy vọng. Trên miếng giấy này, tôi đã vẽ một hình vuông tượng trưng cho tuyệt vọng và một hình kim cương tượng trưng cho hy vọng. Một hình vuông tuyệt vọng,” vừa nói Nick vừa lướt ngòi bút vào bốn góc của hình vuông, “là sự tuyệt vọng dẫn đến sự bi quan, yếm thế, và sẽ dẫn đến sự ì ạch trong hành động, và từ đó sẽ dẫn đến sự thất bại.” Rồi Nick di chuyển ngòi bút đến hình kim cương. “Viên kim cương hy vọng dẫn đến niềm lạc quan, dẫn đến hành động, từ đó sẽ dẫn đến sự thành công. Nếu không có sự hy vọng, sẽ rất khó để có được lòng dũng cảm.”

“Anh cũng cần cả năng lượng nữa. Lòng dũng cảm và năng lượng luôn đi cùng với nhau. Có dũng khí mà không có năng lượng chỉ là có ý định tốt đẹp. Có năng lượng nhưng thiếu mất lòng quả cảm thì giống như là chưa chiến đấu mà đã bỏ cuộc. Đó là lý do tại sao kế hoạch kinh doanh của anh nên bao gồm cả việc tiếp tục là thành viên của Downtown Gym, Charlie! Anh nên lấy lại vóc dáng cân đối của mình để có đủ năng lượng chiến đấu với những nỗi sợ hãi vô hình. Những nỗi sợ hãi có thể là đồng minh nếu anh có thể khuất phục được nó, nhưng nếu anh không thể, nó sẽ là một kẻ thù đáng sợ nhất mà anh từng đối diện.”

Charlie mỉm cười ngượng ngùng. “Tôi sẽ đến vào thứ bảy với một tờ phiếu thanh toán, Nick. Nhưng tôi vẫn chưa thật sự hiểu rõ về điều anh nói khi nào thì nỗi sợ hãi trở thành đồng minh. Nỗi sợ hãi của tôi luôn thường trực và có vẻ như vẫn là một kẻ thù đáng gờm nhất.”

“Nỗi sợ hãi lo lắng có thể trở thành đồng minh thông qua bốn cách khác nhau,” Nick đáp lời. “Đầu tiên, nó có thể chỉ đơn giản là một lời cảnh báo rằng anh chưa sẵn sàng. Khi tôi leo lên võ đài, mức độ lo lắng của tôi thường đi kèm với việc tôi đã chuẩn bị như thế nào cho trận đấu, hơn là năng lực của đối thủ. Khi đôi chân và vùng bụng của tôi khỏe mạnh, tôi có thể vượt qua bất kỳ đối thủ nào; và khi tôi lười không tập luyện chăm chỉ, tôi biết là tôi có thể bị đánh bại dù đối thủ là ai, chỉ cần người đó may mắn tung một cú đấm trúng vào tôi.”

Nick xoa cằm như thể cảm nhận được dư âm của đòn chí mạng ngày xưa. “Này nhé, có rất nhiều thứ phải lo khi anh vận hành một công ty. Nghiễm nhiên anh có thể thiếu tiền bất cứ lúc nào. Anh cũng có thể thiếu thời gian. Anh có thể bị nhân viên lừa. Nếu anh là sếp tồi thì rốt cục anh có thể sẽ lừa nhân viên của mình. Vậy nên anh tham gia một khóa kế toán và buộc bản thân mình phải đọc sổ sách kế toán mỗi ngày sao cho cuối cùng anh không bị cạn túi. Điều đó khiến nỗi sợ phá sản trở thành đồng minh của anh. Anh đọc một cuốn sách về quản lí thời gian và không xem TV nữa để có thời gian trông chừng công việc kinh doanh. Như vậy nỗi sợ đến hạn trở thành đồng minh của anh. Anh sẽ sàng lọc nhân viên của mình tốt hơn để đảm bảo họ phù hợp với những giá trị đại diện cho công ty mình, và anh bỏ thời gian tìm hiểu họ và xây dựng niềm tin nơi họ. Điều đó khiến nỗi sợ bị lừa dối trở thành đồng minh của anh. Và anh học cách trở thành một người lãnh đạo tốt hơn, người không chỉ tính toán lợi nhuận mà còn quan tâm hơn tới việc phát huy tối đa năng lực của nhân viên mình. Điều đó khiến nỗi sợ không tương xứng trở thành đồng minh của anh. Vân vân và vân vân…”

Nghe Nick nói, Charlie khó có thể tưởng tượng là anh ta đã từng kiếm sống bằng việc đấm người khác liên tục cho tới khi bất tỉnh.

“Cách thứ hai để biến nỗi sợ trở thành đồng minh của anh là nó có thể cảnh báo anh khi anh đi chệnh hướng. Khi con tim kéo anh đi một đường còn đôi chân lại theo đồng tiền đi về phía ngược lại, anh sẽ đối mặt với rất nhiều nỗi sợ. Tôi đồ rằng chừng một năm qua ở LPI anh đã chịu đựng đủ những nỗi sợ kinh niên. Đúng không?”

“Gục ngã luôn!” Nick mỉm cười.

“Đó là vì con tim anh không thuộc về nơi đó nhưng cái tôi của anh không muốn tin như thế. Anh đã quen với lương thưởng và bổng lộc. Nhưng khi những hao tổn tâm trí anh phải trả cho phần lương thưởng đó bắt đầu leo thang, nỗi sợ hãi trong anh cũng tăng theo. Kiểu sợ hãi đó giống như căn bệnh ung thư ăn mòn anh, nó sẽ không bao giờ trở thành đồng minh của anh khi anh vẫn còn chệch hướng. Nhưng một khi anh quay đầu lại…”

Nick dừng một lát, sau đó chỉ vào Charlie.

“Anh nói với tôi là anh thấy khiếp sợ khi rời khỏi ngân hàng hôm nay, nhưng chẩn đoán của anh sai rồi. Điều anh thực sự cảm thấy là sự hứng khởi cho một khởi đầu mới, giống như một đứa trẻ sắp trèo lên trò chơi cảm giác mạnh lần đầu tiên. Đó là phép thuật diệu kì biến nỗi sợ hãi thành đồng minh. Hãy nhìn tấm thẻ một lần nữa, và đọc Lời hứa ngày Thứ Tư về Sự quyết tâm.”

Charlie làm như lời Nick bảo, rồi Nick tiếp lời. “Cách thứ ba để biến nỗi sợ hãi trở thành đồng minh là khi anh nhận ra nó thôi thúc anh hành động. Khi tôi có cơ hội đoạt giải vô địch tôi có một cuốn băng video ghi lại vài trong số những trận đấu lớn nhất của Alport. Alport chưa bao giờ nổi tiếng như Hagler hay Hearns (***) nhưng tôi phải nói với anh rằng anh ta cũng không kém cạnh gì. Khi tôi xem những thước phim anh ta băm vằm đối phương thành thịt viên, tôi cũng thấy đứng tim.” Nick dừng trong giây lát. “Anh biết không, Alport đã từng đánh chết cả đối thủ. Vì Chúa, họ chỉ đang đấu võ với nhau. Gã kia có mang mũ và đồ bảo hiểm đầy đủ. Alport đánh hắn ta quá mạnh đến nỗi người ta nói hắn ta chết trước khi ngã xuống sàn. Thế mà tôi đã phải lên võ đài với gã. Đương nhiên là tôi rất sợ hãi, nhưng tôi cũng rất tự hào. Tôi đã không chỉ muốn được sống sót qua trận đấu đó, mà tôi muốn chiến thắng. Tôi đã tập luyện điên cuồng như quái thú. Khi tiếng chuông bắt đầu trận đấu rung lên đêm đó ở Quảng Trường Madison, tôi đã trở nên nhanh hơn, mạnh hơn và tự tin hơn bao giờ hết.”

Nick phút chốc chìm đắm trong hồi ức, ánh nhìn của anh ta dán vào một tấm áp phích trên bức tường phía xa. “Tôi sẽ không bao giờ quên ánh mắt đầy hăm doạ của Alport. Trong mắt hắn đầy sát khí; cảm giác như những lời hướng dẫn của trọng tài đêm đó kéo dài tới ba tiếng đồng hồ. Nhưng anh biết không, điều nực cười là nỗi sợ hãi của tôi đã rắn lại, bản thân tôi cũng vậy. Giống như sắt được tôi luyện qua lửa, nỗi sợ hãi của tôi đã chuyển thành sự quyết tâm đầy phẫn nộ.”

Đôi mắt của Nick dịu lại khi hồi tưởng lại khoảnh khắc bừng sáng của mình. “Suốt mười lăm hiệp đấu – khi ấy các trận đấu còn dài hơn bây giờ, anh biết đấy.” Nụ cười của Nick vương u sầu, hoài cổ nhưng không hối hận. “Hắn ta đánh thắng tôi khá thuyết phục đêm đó, Charlie, nhưng tôi đã thắng trận đấu lớn nhất. Tôi đã chiến thắng nỗi sợ của mình. Và từ đó giờ chúng tôi vẫn duy trì mối quan hệ khá tốt.”

Nick mang bình cà phê lại và rót đầy cả hai tách. “Cách thứ tư để biến nỗi sợ hãi thành đồng minh là cách quan trọng nhất. Nỗi sợ hãi có thể nhắc nhớ niềm tin. Những thứ ta sợ nhất, như cái chết, là những thứ ta không thể thay đổi. Nên ta phải chọn. Chúng ta đối mặt với cái chết bằng nỗi sợ hãi hay bằng niềm tin? Mỗi khi chui qua những sợi dây thừng vào vòng võ đài, tôi làm dấu thánh và để mặc số phận trong tay Chúa. Rồi anh biết sao không? Dù đối thủ của tôi trên võ đài quyết đánh tôi đến gục thì thôi, tôi chưa bao giờ cảm thấy an toàn hơn, theo cách nực cười nào đó, như thể Chúa bảo tôi người vẫn có việc cho tôi làm trong cuộc đời này, và vì thế tôi hãy cứ tiến ra làm hết sức và để Chúa định đoạt. Chúa chưa từng làm tôi thất vọng.”

Nick quay lại ghế ngồi, nhưng vặn vẹo như thể anh ta sẽ không ngồi yên được bao lâu. “Tất nhiên bây giờ tôi e sợ nhiều thứ khác nhau. Không ai định giáng cú đánh trời giáng vào đầu tôi, ít nhất là theo nghĩa đen của nó. Trong kinh doanh chúng ta sợ những thứ như sự từ chối hay thất bại, chứ không phải sự đánh đập thể xác. Nhưng anh biết không? Nó giống như khi tôi nói với bọn trẻ nhà tôi vậy.” Nick lùi lại, bước qua tới bức tường được trang trí bởi những bức ảnh thời trẻ. “Sự từ chối giống như tấm huy chương đỏ của sự dũng cảm. Nó có thể làm anh đau một thời gian, nhưng nếu anh sẵn sàng đón nhận càng nhiều sự từ chối anh thì anh càng trở nên thành công hơn. Những kẻ nhát gan ít khi bị từ chối bời họ không dám thử. Và thất bại cũng giống như tấm huân chương danh dự vậy. Anh có thể thành anh hùng nếu anh thử làm việc gì đó và thất bại, nhưng anh sẽ chẳng bao giờ làm nên điều gì nếu anh trốn tránh thất bại bằng cách không làm gì cả.”

Charile nhìn lên bức tường có những tấm ảnh đấm bốc. Ở chính giữa có một tấm ảnh đen trắng của Nick và một đấu thủ khác đứng bên trong vòng võ đài, ngăn cách bởi một trọng tài. Khuôn mặt của Nick như thể mới bị một chiếc xe tăng Sherman cán qua. Trọng tài đang giơ tay của người kia lên, nhưng trong biểu cảm của Nick cho thấy anh ấy đã thắng trận đấu lớn nhất đêm đó. Anh ấy đứng đó cao lớn và đầy tự hào, bị đánh gục nhưng bất bại.

“Tôi đã từng nghe anh nói về mười hai bước của lòng dũng cảm và kiên trì, Nick. Anh có thể cho tôi biết chúng là những gì không?” Charlie vẫn đang ghi chép và vừa giở sang một trang mới.

“Chắc chắn rồi”, Nick đáp. Anh bẻ đốt ngón tay kêu thành tiếng, rồi lắc đầu như muốn nói một ngày nào đó tôi cần không làm thế nữa “Có sáu bước cho mỗi điều – sáu bước cho lòng dũng cảm và sáu bước cho sự kiên trì. Bước đầu tiên để xây nên lòng dũng cảm là hiểu nỗi sợ hãi của mình, để nhận biết nó. Nếu anh đặt tên cho nỗi sợ, nó sẽ trở thành một vấn đề, mà giải quyết một vấn đề sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc chế ngự sợ hãi. Để tôi lấy một ví dụ. Johnny Dolan là một trong những đứa trẻ trong chương trình ngoại khóa của chúng tôi. Một hôm cậu bé đó tới và đưa báo cáo học tập cho tôi xem. Nó rất tệ. Cậu bé đang suýt bị đuổi học. Và cậu ấy lo sợ sẽ bị bố mình đánh một trận nhừ tử. Tôi hỏi cậu bé vấn đề là gì. Cậu bé nói bố sẽ tẩn cậu một trận. Không, tôi nói, đó là sự lo lắng của cháu. Vấn đề là kết quả học tập của cháu ở trường không tốt. Tôi đề nghị cậu bé viết ra danh sách những thứ mình có thể làm để giải quyết vấn đề - như dành nhiều thời gian hơn để học bài thay vì xem TV, hay nhờ giáo viên giúp đỡ. Sau đó tôi bảo cậu khoanh tròn những thứ mà cậu sẵn lòng cam kết thực hiện. Chà, câu có muốn biết điều gì đã xảy ra không?”

Charlie gật đầu.

“Khi Johnny đưa cho bố phiếu kết quả học tập cùng với bản kế hoạch hành động để cải thiện kết quả học tập, cậu ấy không những không bị đánh mà bố cậu ấy còn đưa cậu ấy tới ngay cửa hàng văn phòng phẩm để mua một cuốn sổ kế hoạch mới, vì thiếu tố chức là một trong những vấn đề của cậu. Nỗi sợ hãi chỉ là tưởng tượng, nên anh không thể thực sự khiến nó biến mất, nhưng những vấn đề là có thực. Anh có thể sửa chữa chúng, và khi đó nỗi sợ hãi trở thành đồng minh của anh.” Nick nắm tay trước ngực và gật đầu.

“Bước thứ hai là nói chuyện với nỗi sợ của anh, để hiểu nó đang cố gắng mách bảo anh điều gì. Khi tôi quyết đinh mở rộng, từ chỗ chỉ là phòng tập thể thao cho những trẻ em lang thang đường phố trở thành một câu lạc bộ thể hình hoành tráng, đó là thời điểm đáng sợ nhất đời tôi. Tôi bị tỉnh giấc lúc nửa đêm vì cảm giác như ruột bị thắt lại. ĐIều đó chưa bao giờ xảy ra khi tôi còn đấu quyền Anh, kể cả trước những trận đấu lớn. Cuối cùng tôi quyết định có một cuộc hội thoại với nỗi sợ của mình, hỏi nó xem vấn đề là gì.”

Nick nhìn Charlie như để chắc chắn anh ấy không nghĩ điều này quá ngớ ngẩn, rồi tiếp. “ Anh biết nỗi sợ của tôi bảo sao không?”

“Sao?”

“Rằng sự lười biếng của tôi sẽ khiến tôi gặp rắc rối to. Thấy không, tới thời điểm đó tôi vẫn cho rằng vận hành một câu lạc bộ thể hình sẽ khá giống với một phòng tập thể thao, chỉ là quy mô lớn hơn thôi. Nhưng tiềm thức của tôi, và nỗi sợ mà nó tạo nên, không chắc chắn lắm về điều đó. Nó muốn tôi làm một số nghiên cứu thị trường, phỏng vấn vài chục người chủ các câu lạc bộ thể hình ở các thành phố khác, và có thể thuê hẳn một tư vấn viên chuyên về lĩnh vực đó, trước khi tôi dốc hết tiền tiết kiệm của mình xây một toà nhà mới. Anh biết điều gì xảy ra với nỗi sợ khi tôi bắt đầu làm tất cả những việc đó không?”

“Nó biến mất?”

“ Suốt cả tiếng đồng hồ vừa rồi anh không chịu để tâm gì cả!” Nick rống lên. “Nãy giờ tôi nói chuyện với bức tường hay sao? Nỗi sợ hãi không bao giờ biến mất, ít nhất trong thế giới này. Nó trở thành đồng minh của tôi. Mỗi khi tôi cảm nhận nỗi sợ quay lại thì tôi lại nói chuyện với nó. “Lần này ta phải làm gì để thuyết phục ngươi?” Tôi sẽ hỏi nó như thế. Và nó sẽ trả lời tôi. Đôi khi,” Nick tiếp, đi đi lại lại trong phòng “nỗi sợ không đồng ý với tôi. Và khi đó tôi phải lựa chọn: hoặc là đầu hàng nỗi sợ và không làm việc mình định làm, hoặc là đáp trả nó, đặt nó vào đúng vị trí đồng hành. Anh sẽ ngạc nhiên thấy nỗi sợ hèn nhát tới mức nào khi anh đấu tranh với nó.” Nick liếc qua bức ảnh của Alport trên tường, và Charlie băn khoăn liệu có phải Nick để bức ảnh đó làm động lực không ngừng cho bản thân.

 “Bước thứ ba là kết nối. Nếu anh đang cố làm một việc gì quan trọng, anh sẽ không bao giờ làm một mình. Cảm giác một mình chống lại cả thế giới có thể là một trong những điều khủng khiếp nhất phải trải qua dù anh ở bất cứ đâu. Khi còn đấu quyền Anh tôi có cả một đội của riêng mình và một huấn luyện viên. Giờ tôi vẫn có huấn luyện viên. Có điều bây giờ đó là huấn luyện viên kinh doanh, người có thể dạy tôi các kĩ năng mới và kiến thức, giúp tôi đi đúng hướng, và cho tôi thấy khía cạnh khác của những vấn đề và những cơ hội của tôi. Tôi dành bốn đến năm tiếng mỗi tuần để kết nối, giao lưu, gặp gỡ những người mới và cải thiện mối quan hệ với những người đã quen biết. Khi tôi càng cảm thấy gắn kết chặt chẽ với mọi người và mọi người tôi quen biết càng hiểu và ủng hộ những giấc mơ và mục tiêu của tôi thì tôi dường như càng thêm dũng cảm hơn.”

“Ai là huấn luyện viên của anh?”, Charlie hỏi, “và những nhóm anh tham gia là những nhóm nào?”

“Anh có nghe nói tới Ryan Bennett không?”

“Là tỉ phú phòng ngủ ư?”

Nick cười lớn. “Anh đọc sách của ông ta rồi hả?”

“Ừ . Khá tuyệt khi có thể biến công việc kinh doanh ông ta bắt đầu trong phòng ngủ thành một đế chế tỉ đô.”

“Đúng vậy. Khi mới bắt đầu ông ta có một chương trình huấn luyện. Ông ta gặp gỡ với nhóm của chúng tôi hàng tháng, chia sẻ lời khuyên, giao bài tập cho chúng tôi, góp ý cho những kế hoạch kinh doanh của chúng tôi, và hầu như ủn mông chúng tôi để chúng tôi vận động. Bây giờ tất nhiên ông ấy đã đào tạo được một đội quân hùng hậu để làm huấn luyện viên theo lý thuyết của ông. Và tôi vẫn đang theo chương trình đó hết năm này sang năm khác.”

“Liệu có lúc nào anh không cần đến khoá học đó nữa không?”

“Charlie, hãy nghĩ về những vận động viên chuyên nghiệp vĩ đại nhất từng chơi bất kì môn thể thao nào: Ali, Joe Montana, Flo-Jo, Michael Jordan, Kathy Rigby. Anh hãy kể bất kì ai trong số họ đã trở nên giỏi đến nỗi không cần huấn luyện viên nữa. Dù chỉ một thôi.”

Charlie im lặng.

“Bất kể anh nghĩ mình giỏi đến mức nào hay anh nghĩ mình biết nhiều bao nhiêu, một trong những sự đầu tư tốt nhất anh có thể làm là có một huấn luyện viên tốt của riêng mình.”

“Sau khi anh kết nối với mọi người, bước thứ tư là trở nên tách biệt khỏi vật chất. Nếu anh càng gắn bó với những thứ mình sở hữu, với nếp sống, với công việc thì anh đã tự buộc mình sống với nỗi sợ sẽ mất đi những thứ đó. Và nếu anh càng lệ thuộc vào mong muốn mọi thứ diễn ra như ý mình thì anh sẽ càng cảm thấy lo sợ rằng nó sẽ không như vậy. Hãy biết ơn vì những gì mình có khi anh đang có chúng, nhưng cũng đừng than khóc khi mất mát nếu điều đó là không tránh khỏi. Hãy có những ước mơ đẹp và làm việc thật chăm chỉ để biến chúng thành sự thật, nhưng đừng khóc lóc nếu kết quả khác so với điều mình hi vọng. Giống như người ta nói ở AA (****) – Buông bỏ và để Chúa lo. Có rất nhiều người trong phòng tập hôm nay nói rằng họ sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì để làm việc mà anh đang làm – tự kinh doanh. Nhưng họ lại không sẵn sàng trả giá, từ bỏ ngôi nhà lớn và chiếc xe sang trọng. Anh có thể nói rằng họ không còn sống trong một căn nhà hay lái một chiếc xe; mà họ sống trong tù và di chuyển từ nơi này tới nơi khác trong một cái cũi có bánh xe. Họ đã trở thành những tù nhân trong chính những tài sản của họ. Chẳng trách nỗi sợ hãi luôn thường trực trong cuộc sống của họ. “ Nick vung một cú đấm trái-phải vào đối thủ vô hình.

“Bước thứ năm là luôn lạc quan và tận hưởng nhiều hơn. Thật khó để sợ hãi khi anh đang cười. Anh biết không, tôi từng thích xem Ali thi đấu hơn bất cứ võ sĩ quyền Anh nào, nhưng không phải chỉ vì ông ấy giỏi nhất – dù đúng là như vậy. Ông ấy giống như là … có niềm vui trong từng chuyển động. Nhìn ông ấy như lúc nào cũng đầy niềm vui. Không chỉ khi trên võ đài, mà mọi lúc. Khi ông ta đang luyện tập, khi ông ta làm trò ở chỗ kiểm tra cân nặng, hay trong các cuộc phỏng vấn. Một phần lí do khiến ông ta dường như không bao giờ sợ hãi là vì ông luôn thư giãn vui vẻ. Khi tôi quyết định mở rộng kinh doanh câu lạc bộ thể hình, tôi đã từng ghét việc phải gọi điện mời chào bán thẻ thành viên. Và bởi vì ghét nên tôi không hề làm tốt việc đó. Tôi biết tôi phải tìm cách làm cho nó thú vị. Anh biết tôi rồi đấy, tôi là một gã *chó đẻ* đáng ghét, vẫn khá xù xì thô kệch và thích gây khó cho người khác. Vậy nên tôi bắt đầu làm việc theo bản năng. Đi tới và nhục mạ người khác.”

Charlie lộ vẻ kinh ngạc và Nick chỉ cười lớn.

“Thật đấy! Tôi đã làm thế. Tôi tiến thẳng tới một gã doanh nhân bụng phệ đang đợi taxi và nói, “Này, anh béo, sao anh không lấy lại vóc dáng để có một cuộc sống tử tế nhỉ.” Sau đó tôi sẽ đưa anh ta tấm thẻ miễn phí 1 tháng hội viên tại phòng tập. Hoặc tôi sẽ tiến đến một quý bà đang hút thuốc trong quán rượu, đưa tấm thẻ và nói, “Tại sao cô không chăm chỉ luyện tập để có được những đường cong hấp dẫn thay vì chăm hút thuốc để mắc ung thư?”

“Anh đã nói vậy thật sao?”

“Thật chứ! Rất nhanh chóng cả thành phố bàn tán về tôi. Tôi còn được lên cả bản tin truyền hình. Ngay cả tờ “Sports Illustrated” cũng muốn viết về tôi, nhưng họ đổi ý khi tôi gọi nhà xuất bản nói rằng một tờ thời báo thể thao được thanh niên cả nước ưa chuộng mà lại đi cổ suý việc hút thuốc lá thì thật thối nát.”

“Thế đã có ai nổi nóng mà đánh anh chưa?”

“Làm quái gì có! Nhìn mặt tôi đi,” Nick yêu cầu, chỉ vào cái mũi vẹo của mình. “Liệu anh có gây gổ với một người mặc chiếc áo sơ mi Golden Gloves (*****) và có khuôn mặt như thế này?”

“Không đời nào!” Charlie kêu lên.

“Thực ra là, một lần khi tôi đang phát thẻ ở một quán rượu thì có một gã mà tôi lướt qua không dừng lại ở bàn của hắn, tiến lại phía tôi và nói, “Có vấn đề gì? Mày nghĩ tao không đủ béo à? Trông mỡ bụng của tao đây,” hắn nói và chỉ vào bụng mình. “Sao tao lại không được nhận thẻ?” Tôi đưa hắn một tấm, và hai tháng sau hắn thưởng thẻ thành viên cho tất cả nhân viên công ty hắn. Bây giờ hắn là tài khoản lớn nhất của tôi.” Nick bật cười sang sảng khiến Charlie nhận ra nỗi sợ hãi không thể có cơ hội nào trước kiểu hài hước đó.

“Cuối cùng, điểm số sáu, là anh cần phải có niềm tin. Như tôi nói lúc trước, những nỗi sợ lớn nhất không được giải tỏa tí nào nếu như không được chấp nhận. Khi anh có niềm tin vào ý nghĩa của cuộc sống, vào những mục đích riêng biệt của sự tồn tại của mình, và vào bàn tay nhân từ của Chúa, anh bắt đầu nhận ra nhiều thứ anh sợ nhất, những nghịch cảnh của cuộc sống, mới thực sự là lợi ích tối hậu của anh.”

Nick đứng dậy, kéo căng và bẻ cổ sang trái rồi sang phải nhiều lần, theo cách mà Charlie từng nhìn thấy những võ sĩ quyền Anh làm trên TV khi họ gườm nhau lúc trọng tài đang phổ biến luật chơi. “Và điều đó dẫn tới nửa còn lại của công thức – biến nghịch cảnh thành người thầy. Bước đầu tiên đơn giản là chấp nhận nó. Thật tức cười là, khi có điều gì tồi tệ xảy ra với ai đó, họ tỏ ra cực kì thất vọng, như thể bằng cách nào đó những điều tệ hại chỉ có thể xảy ra với những người khác. Họ nên đọc lại điều thứ Hai mươi ba trong Kinh thánh. Nó nói rằng chúng ta đi xuyên qua thung lũng cái bóng của thần chết – không phải vượt qua, luồn qua hay đi vòng qua đó. Jackie Meyers là một trong những người thầy vĩ đại nhất của tôi trong trò đánh đấm. Đây là điều ông ta đã dạy tôi nói khi nghịch cảnh ập tới” “Ta biết mi sẽ tới, nghịch cảnh kia, ta chỉ hi vọng mi không tới quá sớm. Nhưng một khi mi đã ở đây rồi, chúng ta hãy ngồi xuống nói chuyện. Những bài học nào mi đem đến cho ta? Mi sẽ làm ta mạnh mẽ lên như thế nào?” Thái độ đó luôn giúp tôi giữ vững lập trường của mình khi mọi thứ dường như chệch hướng. Bước thứ hai là nhận ra rằng dù chúng ta rồi ai cũng phải đi vào thung lũng cái bóng của thần chết, chúng ta không cần phải cắm trại luôn tại đó trong bóng tối.”

Charlie cười lớn. “Anh sẽ thấy kinh ngạc,” Nick đáp, “là thực tế có bao nhiêu người mọc rễ ở dưới đó. Ở dưới thung lũng khiến họ cảm thấy thoải mái hơn, bởi khi đó sự kì vọng của họ có thể rất thấp. Để khốn khổ tốn ít năng lượng hơn rất nhiều so với để hạnh phúc, nên họ chỉ muốn đắm mình dưới thung lũng đó, kêu than thế giới đối xử với họ tệ hại đến thế nào, và đổ lỗi cho mọi người trừ bản thân mình về những vấn đề của họ. Những người như vậy trở thành nam châm hút vận đen. Họ càng quanh quẩn ở dưới thung lũng đó thì càng có nhiều điều tồi tệ lăn theo sườn đồi đổ xuống đầu họ.”

 Charlie nghĩ về Ingrid, người ngồi cách anh vài bàn làm việc ở LPI. Mỗi ngày cô ấy dường như có thêm một nỗi khổ mới. Một nam châm của sự đen đủi. Cái tên đó như chỉ dành riêng cho cô. Cô ấy sống để than phiền.

“Bước thứ ba là coi vận đen như một sự quảng bá cho cơ hội. Cơn mưa bão làm huỷ chuyến đi dã ngoại thì nó cũng làm cho hoa nở và mang lại cầu vồng. Thời điểm tốt nhất để đầu tư là khi thị trường chứng khoán chạm đáy.” Nick nhìn qua bức tường treo ảnh của những thanh niên trẻ đã kết thúc khoá học ở phòng tập của anh. “Tôi đã đầu tư vào bọn trẻ đó,” anh tiếp, “khi chúng rớt xuống đáy. Số cổ tức mà tôi gặt hái không thể đếm hết. Anh biết không, sau khi bị sa thải, người ta dành rất nhiều thời gian tới phòng tập này để tập thể thao. Tôi cho rằng đó là cách họ có thể thoát khỏi những vấn đề hóc búa và làm gì đó để xây đắp lòng tự tin bằng cách tăng cường sức khoẻ thể chất – không người chủ vô tâm nào có thể cướp đi sức khoẻ hay sức mạnh của anh cả. Điều đó khá buồn cười, bởi vì đầu tiên bọn trẻ đều buồn chán, như thể đó là điều tồi tệ nhất thế gian. Tất nhiên, khi tôi gặp bọn trẻ vài năm sau đó và hỏi tình hình thế nào, anh nghĩ bọn chúng nói gì về chuyện mất việc trước kia?”

“Đó là điều tuyệt vời nhất có thể xảy ra?”

“Hoàn toàn đúng! Trăm lần như một. Và điều đó đưa tôi đến bước thứ tư. Cái này xuất phát từ nhan đề của một cuốn sách của Cha Michael Crosby: Hãy cảm ơn Chúa trước. Bất kể chuyện gì xảy ra với anh thì vẫn luôn có điều gì đó để anh biết ơn. Anh có thể tránh khỏi rất nhiều nỗi đau đớn và thống khổ trong cuộc đời khi có thái độ tích cực đó. Bước thứ năm là luôn tỉnh táo trong hiện tại, biết ơn với những gì mình có thay vì đau khổ vì những thứ đã mất. Anh có nhớ vụ hoả hoạn cách đây bảy tám năm trước không?”

Charlie vẫn nhớ như in. Thật kì diệu là đã không có ai bị thương.

“Một ngày, tôi không để ý là mình đang cầu nguyện được hồi phục, như thể là Chúa sẽ tới từ Thiên đàng và đích thân hồi phục lại những thứ đã mất. Bỗng nhiên, một câu từ Lời cầu nguyện của Chúa vang lên trong đầu tôi: Hôm nay hãy cho tôi cái ăn hàng ngày. Trong đầu tôi loé lên: lời cầu nguyện đó không hề nhắc đến cái ăn cho ngày mai! Phòng tập của tôi gần như bị thiêu rụi, nhưng tôi vẫn có cái ăn để biết ơn. Đó thực sự là một nghịch lý: nếu tôi càng biết ơn vì có cái ăn hôm nay thì tôi càng chắc chắn là ngày mai sẽ mang đến vụ mùa bội thu. Mặt khác, nếu tôi càng lo lắng về thu hoạch của ngày mai thì tôi sẽ bớt quý trọng phần thức ăn mà tôi có hôm nay. Và khi tôi không quý trọng ngày hôm nay thì ngày mai cũng sẽ không tốt hơn là mấy.”

Điện thoại của Nick đổ chuông nhưng anh ta mặc kệ. “Thứ sáu là nhận ra thất bại tất yếu ở giữa chừng. Tôi đọc đâu đó rằng mọi thứ có thể trông giống thất bại khi ta đang ở giữa chừng, và tôi nghiệm ra đó là một trong những sự thật vĩnh cửu vĩ đại. Khi anh bắt tay vào một dự án mới, mọi người đều hứng khởi và sự thành công của anh tưởng như là chắc chắn. Sau khi khi hồi chuông cuối cùng rung lên anh mới biết mình đã thắng hay thua. Nhưng giữa chừng mọi thứ có thể trở nên khá hỗn loạn. Đôi khi điểm khác biệt duy nhất giữa người thắng và kẻ thua là kẻ thua bỏ cuộc chứ không tìm lối thoát khỏi sự hỗn loạn. Anh phải tiến lên không ngừng, Charlie, cả thể chất và tinh thần. Anh phải làm những điều mình không muốn làm.” Nick lại phá lên cười. “Là một con chiên Công giáo ngoan đạo, có nhiều ngày tôi nghĩ mình có thể đến nhà thờ, thắp nến và cầu nguyện, và tôi sẽ được giải thoát khỏi những rắc rối. Thực tế là cách đó hầu như luôn hiệu nghiệm – chỉ cần sau khi cầu nguyện tôi quay lại làm công việc quan trọng nhất cần làm, cũng là việc mà tôi ít muốn làm nhất. Tôi luôn nghĩ về ba chữ P của sự kiên trì. Đó là Purpose (Mục đích), Passion (Nhiệt huyết) và Patience (Kiên nhẫn). Đó chính là nội dung của Không Bao Giờ Bỏ Cuộc. Hãy biết mục đích của mình, nhiệt huyết về nó và kiên trì đeo đuổi nó bất kể thời gian cho tới khi tầm nhìn trở thành hiện thực.”

Nick đứng dậy đi về phía bàn làm việc và lấy ra một cuốn sổ nhỏ từ ngăn kéo đầu tiên. Anh ấy viết gì đó vào trang đầu, xé ra và đưa cho Charlie. “Nói về chuyện làm những việc mà anh không muốn làm,” anh nói, “đây là phiếu quà tặng tại cửa hàng của chúng tôi. Tôi muốn anh ra ngay đằng kia dùng nó mua giầy dép và quần áo. Sau đó lê cái mông béo của anh tới khu thể thao và luyện tập đi.” Nick phẩy hai cánh tay như thể muốn quét Charlie ra khỏi phòng và mỉm cười. “Khi anh ở ngoài đó hãy nói chuyện với càng nhiều người càng tốt về ý tưởng của anh về một nơi tôi luyện lòng dũng cảm. Tôi thực sự hứng thú với việc bắt đầu một cái như vậy ở đây.”

Hai mươi phút sau, Charlie đang đạp một chiếc xe tập và mang trên người một chiếc áo Downtown Gym màu vàng chói. Quay sang anh bạn trên xe tập kế bên, anh cười và hỏi “Anh nghỉ việc bao lâu rồi?”

Người đàn ông kia đáp lại với ánh mắt ngạc nhiên. “Sao anh biết?”

Charlie cười rạng rỡ hơn. Anh có cảm giác mình có lẽ vừa mới tuyển được khách hàng đầu tiên cho The Courage Place.


(*) tổng thống Theodore Roosevelt

(**) Read, Reason, Recite: đọc, suy luận, và kể lại

(***) Những võ sĩ quyền Anh nổi tiếng

(****) AA (Alcoholic Anonymous) là tổ chức giúp đỡ những người nghiện rượu.

(*****) Giải quyền Anh không chuyên thường niên tổ chức ở Mỹ.

0