Bài văn phân tích tình huống truyện trong "Vợ nhặt" số 10 - 10 Bài văn phân tích tình huống truyện độc đáo trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân
Sự thăng hoa của tác phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể không kể đến việc sáng tạo ra tình huống truyện độc đáo. Kim Lân là một nhà văn nông thôn chuyên viết về những chuyện nông thôn như: Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí, Chuyện ông già trên núi Côi Kê….Trong đó, “Vợ ...
Sự thăng hoa của tác phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể không kể đến việc sáng tạo ra tình huống truyện độc đáo. Kim Lân là một nhà văn nông thôn chuyên viết về những chuyện nông thôn như: Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí, Chuyện ông già trên núi Côi Kê….Trong đó, “Vợ nhặt” là tác phẩm góp phần làm nên tên tuổi nhà văn Kim Lân với những nghệ thuật sáng tạo độc đáo: đó là tình huống truyện.
Tình huống truyện được hiểu là tình thế xảy ra truyện, là “cái khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, là “cái khoảnh khắc chứa đựng cả đời người” (Nguyễn Minh Châu). Qua tình huống truyện, chúng ta có thể thấy rõ mối quan hệ giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh, góp phần nổi bật tư tưởng của tác phẩm. Tình huống truyện “Vợ nhặt” vừa là một tình huống lạ, độc đáo lại vừa là một tình huống oái oăm, trớ trêu.
Tình huống truyện trong “Vợ nhặt” vô cùng độc đáo: Đó là việc anh Tràng lấy được vợ trong nạn đói lịch sử, trong những ngày mà người chết đầy đường, đoàn người dắt díu nhau đi tìm cái ăn, xóm ngụ cư đêm dêm vang lên trong tiếng hờ khóc người chết.
Tình huống ấy trước hết được coi là tình huống lạ, độc đáo. Ta thấy hành động lấy được vợ của Tràng vô cùng khác thường mà phải gọi là “nhặt vợ” thì đúng hơn. Dưới mắt những người dân xóm ngụ cư, người như Tràng lấy được vợ là chuyện không tưởng. Quan niệm dân gian trước giờ luôn xem nhẹ việc lấy chồng ngụ cư – vốn là tầng lớp dưới đáy thường bị xã hội xem thường, rẻ khinh. Hơn nữa, Tràng lại là một người xấu xí, nghèo khổ. Giữa thời buổi ấy, nuôi được thân mình đã khó mà lại còn đèo bòng chuyện vợ con. Nhưng đáng thương hơn cả là hành động nhặt vợ ấy. Vợ - đáng lẽ hải được cưới hỏi tử tế, đàng hoàng, phải đầy đủ mâm cỗ rước về nhưng nay lại rẻ rúng bằng một câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc.
Tràng nhặt được vợ trong một tình huống vừa kì quặc, vừa oái oăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm. Mặc dù lạ nhưng việc Tràng lấy được vợ là điều vô cùng hợp lí. Người đọc toàn hoàn bằng lòng với việc xảy ra. Anh Tràng lấy vợ lúc này là đúng bởi vì nếu không phải năm đói thì chắc chẳng có người đàn bà nào chịu lấy anh. Hơn nữa, hành động nhặt vợ kia còn thể hiện được sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của những con người năm đói.
Bên cạnh đó, tình huống truyện còn thể được sự éo le, oái oăm, trớ trêu. Nếu trong hoàn cảnh bình thường thì anh Tràng lấy vợ là niềm vui cho bà mẹ và xóm ngụ cư. Vậy mà éo le thay, việc anh Tràng lấy vợ không biết là nên vui hay nên buồn. Chính Tràng ban đầu cũng không ngờ được việc mình lấy được vợ. Chỉ bốn bát bánh đúc và một câu bông đùa – hôn nhân chưa bao giờ tưởng có thể đơn giản được như thế. Dưới con mắt của người dân xóm ngụ cư, anh Tràng lấy vợ khiến người ta tò mò, ngạc nhiên, lo sợ cho anh. Tình hình hiện tại biết bao u ám “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào” thế nhưng Tràng vẫn đèo bòng chuyện vợ con.
Với bà cụ Tứ, bà còn nghĩ đến những điều tệ hại hơn: “biết rằng chúng nó lấy nhau liệu có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”. Với Tràng, anh đã từng cảm thấy hơi chợn khi nghĩ về niềm hạnh phúc bé nhỏ vừa tìm được “thóc gạo này đến thân mình chẳng biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng?” Với thị - người vợ vừa được nhặt về, nỗi tủi hổ dường như lấn át cả niềm vui. Nói trắng ra, thị lấy Tràng cũng vì muốn sống sót qua cơn đói, muốn tìm một chiếc phao cứu sinh. Sự éo le ấy còn lan tỏa ra khung cảnh xung quanh. Đêm tân hôn của hai người khốn khổ diễn ra trong cái gió lồng lộng từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu vàng đục và tiếng hờ khóc của người chết vang lên trong xóm ngụ cư.
Từ những điều đã phân tích trên, ta thấy tình Tràng lấy được vợ mang lại giá trị hiện thực sâu sắc. Trước nhất, nó phơi bày số phận của người nông dân trước cách mạng tháng tám. Vì nghèo khổ nên Tràng không thể nào lấy được vợ, phải chờ đến cơ hội “trời cho”. Càng mỉa mai hơn khi cơ hội ấy chính là nạn đói lịch sử, là thảm cảnh đau thương của biết bao con người chết đói khiến cho người đàn bà tự nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ giá trị theo không anh về làm vợ. Con người hiện lên như cái rơm, cái rác bị vứt ngoài lề cuộc sống. Trong khung cảnh đói khát ấy, anh lấy vợ mà chẳng ai mừng cho, bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới thật thảm hại, lấy vợ trong nỗi xót xa, cay đắng khôn cùng.
Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng là điều khiến người đọc phải suy nghĩ trước sau. Kim Lân đã gợi lên trong lòng người đọc niềm xót xa khôn nguôi, qua đó gợi cho người đọc sự cảm thông về số phận người dân nghèo. Đồng thời, góp phần phát hiện phẩm chất đáng quí của người nông dân ngay giữa hoàn cảnh đói khát. Trong cái đói, mẹ con anh đã biết cưu mang một người xa lạ. Việc Tràng cưới vợ trước xuất phát từ bản chất xót thương, muốn cứu vớt thị. Lời mời “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” có vẻ như đùa nhưng thực ra là cơ hội dễ dẫn thị từ bên bờ vực của cái đói, cái chết về đến hạnh phúc gia đình.
Tràng lo lắng, quan tâm, trân trọng từng hạnh phúc bình dị, đơn sơ: đưa chị vào hàng ăn một bữa cơm thật no, sắm cho chị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt, mua dầu thắp đèn cho sáng đêm tân hôn… Tràng còn âm thầm theo dõi thái độ của thị và cảm thấy lo lắng trước sự lặng lẽ: “quái sao nó lại buồn thế nhỉ”? Tràng giới thiệu thị với mẹ một cách đàng hoàng để thị vơi bớt tủi hổ: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau”. Đặc biệt, Kim Lân qua việc khắc họa nhân vật còn thể hiện niềm tin vào sự đổi đời.
Đây là nét nhân đạo mới mẻ ở ông. Nghe vợ kể chuyện nông dân Thái Nguyên, Bắc Giang phá kho thóc chia cho dân nghèo khiến Tràng chợt nhớ đến cảnh đoàn người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp. Phải chăng anh thấy tiếc vì không tham gia đoàn biểu tình ấy? Ở những con người năm đói là sự vươn lên mạnh mẽ. Cái đói không những không đánh gục ngã được họ mà làm cho họ tìm thấy niềm tin ở tương lai.
Tóm lại, tính huống Tràng lấy vợ thực sự mang lại cái nhìn tin tưởng của người đọc về sự thay đổi của số phận người nông dân. Chính vì vậy, qua “Vợ nhặt”, chúng ta càng hiểu hơn về tư tưởng của Kim Lân: “Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó (…) Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người dù đói thế nào đi chăng nữa vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ”.