Bài văn phân tích tác phẩm "Về luân lí xã hội ở nước ta" số 2 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Về luân lí xã hội ở nước ta" của Phan Châu Trinh
Phan Châu Trinh (1872 – 1926) tự là Tử Cán, hiệu là Tây Hồ, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kì. (Nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam), ông là một chí sĩ yêu nước có chủ trương cứu nước bằng cách lợi dụng thực dân Pháp, hủy bỏ chế độ phong kiến ...
Phan Châu Trinh (1872 – 1926) tự là Tử Cán, hiệu là Tây Hồ, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kì. (Nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam), ông là một chí sĩ yêu nước có chủ trương cứu nước bằng cách lợi dụng thực dân Pháp, hủy bỏ chế độ phong kiến Nam triều hủ lậu, cải cách mọi mặt, nhằm mục đích làm cho dân giàu nước mạnh. Ông luôn luôn có ý thức dùng văn chương để tuyên truyền, vận động cách mạng.
Những tác phẩm tiêu biểu của Phan Châu Trinh gồm: Đầu Pháp chinh phũ thư (1906), Tinh quốc hồn ca II (1907, 1922), Tây Hồ thi tập (1904 – 1914), Xăng-tê thi tập( 1914 -1915), Thất điều trần (1922), Đạo đức và luân lí Đông Tây (1925), …
Đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta thuộc phần III của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây do Phan Châu Trinh viết và diễn thuyết vào đêm 19-11- 1925 tại Hội Thanh niên ở Sài Gòn. Nội dung đoạn trích toát lên dũng khí của một người yêu nước dám vạch trần thực trạng đen tối của xã hội và đề cao tư tưởng dân chủ.
Tác giả khẳng định việc truyền bá luân lí xã hội là hết sức cấp thiết và quan trọng để khôi phục ý thức của dân chúng về nghĩa vụ đối với quốc gia, dân tộc; hướng mọi người tới mục đích giành chủ quyền độc lập tự do và xây dựng tương lai tươi sáng của đất nước. Đối tượng bài diễn thuyết của Phan Châu Trinh trước hết là người nghe sau đó mới là toàn thể dân chúng Việt Nam. Đoạn văn thể hiện phong cách chính luận độc đáo: lúc từ tốn, nhẹ nhàng, lúc đanh thép, mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục.
Ở nước ta hiện nay, luân lí xã hội hầu như chưa có. Nguyên nhân là do dân ta thiếu ý thức đoàn thể, chưa biết bênh vực nhau và giữ gìn quyền lợi chung. Vua quan thì tham lam, ích kỉ, cố tình bần cùng dân chúng cả về tinh thần lẫn vật chất. Vì vậy, muốn nước Việt Nam được tự do, độc lập thì trước hết phải tuyên truyền luân lí xã hội, phải xây dựng đoàn thể để lo công ích, lo cho quyền lợi của nhau, tiến tới đánh đổ chế độ phong kiến hủ lậu, thối nát.
Trước tiên, chúng ta phải tìm hiểu thuật ngữ chủ nghĩa xã hội. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Phan Châu Trinh không giống với quan niệm chủ nghĩa xã hội của Các Mác. Phan Châu Trinh cho rằng lịch sử xã hội loài người đi lên theo con đường gia đình – quốc gia – xã hội và tương ứng với nó là sự phát triển tuần tự của luân lí gia đình, luân lí quốc gia và luân lí xã hội. Còn Các Mác khẳng định lịch sử của tất cả các xã hội là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Luân lí xã hội mà tác giả đề cập đến trong đoạn trích này có nội dung gắn liền với ý thức sẵn sàng vì lợi ích chung, là tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau trong đoàn thể vì sự tiến bộ xã hội. Luân lí ở phương Tây đã phát triển qua ba giai đoạn, từ gia đình, lên quốc gia, đến xã hội. Thời Trung cổ, luân lí mới nằm trong phạm vi gia đình, gia đình nào biết gia đình nấy. Khi các quốc gia hình thành (khoảng thế ki XVI) thì có luân lí quốc gia, quốc gia nào lo củng cố, phát triển quốc gia nấy. Chi sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất tư tưởng về luân lí xã hội mới thực sự được đề xướng và xây dựng.
Luân lí xã hội tức là luân lí của chủ nghĩa xã hội, coi trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ quan tâm đến quyền lợi của từng gia đình, quốc gia mà còn đến cả thế giới. Theo Phan Châu Trinh thì trong xã hội Việt Nam đương thời, cả luân lí gia đình lẫn luân lí quốc gia mà phần cốt lõi là ý thức nghĩa vụ của công dân đối với quốc gia đều đã tiêu vong. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng mất nước. Riêng về thứ luân lí xã hội đang được cổ vũ ở các nước phương Tây thì dân ta chưa có ý niệm gì.
Trong phần 1 của đoạn trích, tác giả đi thẳng vào vấn đề và đưa ra một loạt những câu phủ định để tạo sự chú ý và gây ấn tượng mạnh mẽ. Đây là cách vào đề ngắn gọn, rõ ràng, thể hiện tư duy sắc sảo, nhạy bén của nhà cách mạng Phan Châu Trinh, vấn đề trọng tâm là: Ở Việt Nam chưa có luân lí xã hội: Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều.
Trong phần 2, tác giả đã so sánh quan điểm, nhận thức của người châu Âu với người Việt Nam về luân lí xã hội. Sự khác biệt nằm ở ý thức nghĩa vụ giữa người với người. Xã hội châu Âu đề cao dân chủ, coi trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ quan tâm đến từng gia đình, từng quốc gia mà quan tâm đến cả thế giới: Bên Pháp mỗi khi người có quyền thế, hoặc Chinh phủ, lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay của một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận động cho đến kì được công bình mới nghe.
Tác giả chứng minh ở nước ta tuyệt nhiên không có luân lí xã hội bằng bốn luận điểm phản biện và những dẫn chứng cụ thể, rõ ràng: Luận điểm thứ nhất: Dân ta chi biết lo cho bản thân, không quan tâm đến người khác, sợ sệt đủ điều như kẻ ngủ không biết gì là gì… không hiểu cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người… nghĩa vụ của mỗi người trong nước cũng chưa hiểu gì cả. Chứng minh: Người mình phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn đó không can thiệp gì đến mình.
Luận điểm thứ hai: Dân ta không biết đoàn thể, không trọng công ích. Trước kia dân tộc Việt Nam cũng biết tới đoàn thể, công ích, cũng hiểu rằng: đã biết sống thì phải bênh vực nhau, biết góp gió làm bão, giụm cây làm rừng, không đến nỗi trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì như ngày nay. Tác giả lấy những câu thành ngữ để chứng minh rằng ông cha ta cũng đã từng biết đến sức mạnh của đoàn thể, đoàn kết: Không ai bẻ đũa cả nắm và Nhiều tay làm nên bếp. Nhưng đáng tiếc là hiện nay, tinh thần đó không còn nữa.
Tác giả chi rõ nguyên nhân tạo ra tình trạng dân không biết đoàn thể, không trọng công ích chính là sự phản động, thối nát của chế độ phong kiến. Ông vạch trần bản chất của bọn vua quan đương thời cố tình dối mình lừa người để duy trì địa vị và lòng tham khốn cùng: Dân không biết đoàn thể, không trọng công ích là bởi ba bốn trăm năm trở về đây, bọn học trò trong nước mắc ham quyền tước, ham bả vinh hoa của các triều vua mà sinh ra giả dối nịnh hót, chỉ biết có Vua mà chẳng biết có dân. Bọn ấy muốn giữ túi tham mình được đầy mãi, địa vị của mình được vững mãi, bèn kiếm cách thiết pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân.
Luận điểm thứ ba: Vua quan mặc sức bóp nặn dân chúng, chi biết vơ vét, bóc lột, coi sự dốt nát của dân là điều kiện tốt để củng cố quyền lực và thoả mãn lòng tham của chúng. Chúng là loại người nhẫn tâm, vô trách nhiệm, không hề quan tâm đến lợi ích của dân chúng: Dẫu trôi nổi, dẫu cực khổ thế nào mặc lòng, miễn là có kẻ mang đai đội mũ ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong!
Tác giả dùng nhiều câu văn cảm thán để thể hiện nỗi đau xót trước thực trạng tăm tối thô thảm của nhân dân: Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại mà chi ! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn vua quan lại càng phú quý! Người ngoài thì khen đắc thời, người nhà thì dựa hơi quan, khiến những kẻ ham mồi phú quý không đua chen vào đám quan trường sao được. Quan lại đời xưa đời nay của ta là thế đấy! Luân lí của bọn thượng lưu – tôi không gọi bọn ấy là thượng lưu, tôi chi mượn hai chữ thượng lưu nói cho anh em dễ hiểu mà thôi – ở nước ta là thế đấy!
Tác giả nêu đích danh bọn quan tham: Ngày xưa thì bọn ấy là bọn Nho học đã đỗ được cái bằng cử nhân, tiến sĩ, ngày nay thì bọn ấy là bọn Tây học đã được cái chức ki lục thông ngôn; có khi bồi bếp dựa vào thân thế của chủ cũng ra làm quan nữa. Những bọn quan lại đã nói ở trên này chỉ còn một tiếng chỉ đúng hơn là lũ ăn cướp có giấy phép vậy.
Cách tác giả gọi bọn quan lại tham lam, nhũng nhiễu như trên là vô cùng chính xác và thể hiện sự căm ghét cao độ của ông đối với tầng lớp quan lại Nam triều. Trong suy nghĩ và đánh giá của ông thì chế độ vua quan chuyên chế vô cùng tồi tệ, cần phải phủ định chế độ ấy một cách triệt để. Bên cạnh đó, tác giả thấy phải thẳng thắn chỉ ra sự hèn kém của dân mình, nước mình. Trước tệ nạn bọn thống trị rút tỉa của dân, lấy lúa của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa và bọn người xấu đua nhau chạy ngược chạy xuôi để mua quan bán tước đặng ngồi trên, đặng ăn trước, đặng hống hách … mà dân vẫn nín nhịn, không dám phẩm bình, chê bai gì cả.
Luận điểm thứ tư: Người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, thấy quyền thế thì chạy theo, quỵ lụy, dựa dẫm: Những kẻ ở vườn thấy quan sang, quan quyền cũng bén mùi làm quan. Nào lo cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược nào chạy xuôi, dầu cố ruộng dầu bán trâu cũng vui lòng, chỉ cần được lấy một chức xã trưởng hoặc cai tổng, đặng ngồi trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thôi. Những kẻ như thế mà vẫn không ai khen chê, không ai khinh bỉ, thật cũng lạ thay! Thương ôi ! Làng có một trăm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức là luân lí cả. Đó là nói người trong một làng đối với nhau, chỉ như đối với dân kiều cư ngụ thì lại càng hà khắc hơn nữa. Ôi ! Một dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được! Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có là cũng vì thế.
Các câu cảm thán trong đoạn văn trên cho thấy tác giả không chỉ phát biểu chủ kiến bằng lí trí tỉnh táo mà còn bằng trái tim tràn trề cảm xúc, chan chứa nỗi xót xa, đau đớn về tình trạng đình trệ thê thảm của xã hội phong kiến Việt Nam. Qua đó chúng thấy ta rõ phẩm chất trung thực, cứng cỏi, quyết liệt của một nhà cách mạng toàn tâm toàn ý đấu tranh vì dân chủ, vì tiến bộ xã hội.
Theo tác giả, muốn có luân lí xã hội thì dân ta phải biết gây dựng đoàn thể để tự bảo vệ quyền lợi của mình và hỗ trợ nhau trong cuộc sống. Phải bỏ thói dựa dẫm vào quyền thế, chấm dứt tệ nạn mua danh bán tước hòng có được vị trí ngồi trên, ăn trước. Phải đánh đổ chế độ vua quan thối nát làm bại hoại luân lí xã hội, khiến tư tưởng cách mạng không thể nảy nở và nước ta không thể có được tự do, độc lập. Điều tác giả đề nghị trong hoàn cảnh xã hội lúc đó có ý nghĩa rất quan trọng và cấp thiết.
Phan Châu Trinh cho rằng muốn làm cách mạng ở nước ta thì phải giải quyết trước hết vấn đề dân trí, vấn đề ý thức dân chủ của người dân. Ông xem đó là chuyện hệ trọng bậc nhất cần làm để hướng tới mục tiêu giành tự do, độc lập cho dân tộc. Ông suy ngẫm kĩ càng và tìm ra mối quan hệ mật thiết giữa tuyên truyền ý thức công dân, gây dựng đoàn thể với sự nghiệp giành tự do, độc lập. Tác giả luôn hướng về cái đích cuối cùng là giành tự do, độc lập nhưng cũng hết sức tỉnh táo trong việc lựa chọn đường hướng.
Từ chỗ nhận ra một sự thực nhức nhối là dân trí nước ta quá thấp và ý thức đoàn thể của người dân rất kém mà các điều này lại gây trở ngại không ít cho mưu đồ cứu nước, ông kêu gọi gây dựng đoàn thể và đi kèm với nó là việc đánh đổ chế độ vua quan thối nát. Từ đó, ông đi tới kết luận: Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chỉ hay hơn là truyền bá xã hổi chủ nghĩa trong dân Việt Nam này. Lập luận của tác giả hết sức chặt chẽ, có sức thuyết phục cao.
Đoạn trích về luân lí xã hội ở nước ta thể hiện khá rõ những điều cốt lõi tạo nên sức hấp dẫn của bài diễn thuyết: lập luận chặt chẽ, lôgích, xúc cảm chân thành, nồng nhiệt biểu lộ qua những lời cảm thán thống thiết; qua lập trường kiên quyết đánh đổ chế độ quân chủ phong kiến lạc hậu qua kế hoạch hành động được vạch ra cụ thể, rõ ràng. Điều đó biểu hiện tư duy lí luận nhạy bén, sắc sảo của nhà cách mạng Phan Châu Trinh.
Từ đoạn trích, chúng ta có thể thấy tâm trạng của tác giả khi viết bài văn nghị luận trên là căm ghét bọn quan lại tham nhũng, hiểu thấu những thối nát của chế độ phong kiến đến tận gốc rễ. Bên cạnh đó là tình cảm thương xót đồng bào và hi vọng vào tương lai tươi sáng của dân tộc một khi đã có đoàn thể vững mạnh đấu tranh hướng đến chủ nghĩa xã hội tích cực và tiến bộ.
Phan Châu Trinh đã thể hiện một tầm nhìn xa rộng và những suy nghĩ sắc sảo khi vạch ra thực trạng cùng giải pháp truyền bá luân lí xã hội chủ nghĩa, gây dựng tinh thần đoàn kết để tiến đến sự nghiệp giành tự do độc lập cho dân tộc Việt Nam. Những điều Phan Châu Trinh nói về việc xây dựng nền luân lí xã hội cho đến nay vẫn có ý nghĩa thời sự nhất định. Nó nhắc nhở mọi người hãy nêu cao tinh thần đoàn kết và ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng, vì tương lai tốt đẹp của đất nước.