Bài văn phân tích tác phẩm "Sông núi nước Nam" số 8 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Sông núi nước Nam" của Lý Thường Kiệt
Nhắc đến tuyên ngôn độc lập của đất nước ta thường nghĩ đến bản tuyên ngôn độc lập được Bác đọc tại quảng trường Ba Đình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 lịch sử. Nhưng trước đó đã có một số tác phẩm mang dấu ấn, tính chất của tuyên ngôn độc lập. Và trong đó không thể không nhắc đến bài ...
Nhắc đến tuyên ngôn độc lập của đất nước ta thường nghĩ đến bản tuyên ngôn độc lập được Bác đọc tại quảng trường Ba Đình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 lịch sử. Nhưng trước đó đã có một số tác phẩm mang dấu ấn, tính chất của tuyên ngôn độc lập. Và trong đó không thể không nhắc đến bài thơ thần Nam quốc sơn hà.
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, viết bằng chữ Hán. Bài thơ vốn không có tên. Cái tên “Nam quốc sơn hà” là được những người biên soạn hợp tuyển thơ văn đặt căn cứ vào việc lấy bốn chữ đầu tiên của bài thơ. Bài thơ Nam quốc sơn hà có ít nhất là 35 dị bản sách và 8 dị bản thần tích.
Bài thơ này đầu tiên được ghi vào sách vở là sách Việt điện u linh tập, song bản Nam quốc sơn hà trong Việt điện u linh tập không phải là bản được biết đến nhiều nhất, bản ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư mới là bản được nhiều người biết nhất. Đại Việt sử ký toàn thư được biết đến là bộ chính sử đầu tiên có ghi chép bài thơ này.
Nam quốc sơn hà sáng tác năm nào? Phân tích Nam quốc sơn hà, ta thấy bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước. Vào cuối năm 1076, nhà Tống có ý đồ xâm lược Đại Việt. Vua Tống đã cử quân kéo sang xâm lược nước ta. Tuy là nước nhỏ nhưng ta quyết không để mất nước, quân dân đồng lòng cùng chống giặc ngoại xâm.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Thái uý Lí Thường Kiệt, quân ta đã chặn giặc tại phòng tuyến sông Cầu, đến tháng 3 năm 1077 thì đánh tan quân giặc. Hiện nay về tác giả của bài thơ này vẫn chưa được xác định rõ ràng. Nhưng giả thuyết được nhiều người đồng ý nhất là bài thơ do Lý Thường Kiệt sáng tác. Tương truyền rằng, để khích lệ và động viên ý chí chiến đấu của quân ta cũng để làm tan rã tinh thần quân giặc, Lí Thường Kiệt đã cho đọc bài thơ giữa đêm khuya trên bờ sông Cầu.
Lời thơ ngân vang khắp cả đất trời khiến cho nghĩa quân tin rằng trời đất ủng hộ cuộc kháng chiến và đây là một dấu hiệu tốt, lòng dân được củng cố thanh thế sĩ khí ngày càng tăng. Lý Thường Kiệt thừa cơ hội đó liền cho quân vượt sông, tổ chức một trận quyết chiến chủ động tấn công đánh thẳng vào trại giặc.
Phần vì yếu tố bất ngờ, phần vì tinh thần chiến đấu của quân Việt đang dâng lên cao, quân Tống chống đỡ yếu ớt, số bị chết, bị thương đã quá nửa. Quân Tống đại bại. Lý Thường Kiệt nhìn trước thời cuộc nên không tiếp tục tấn công mà liền cho người sang nghị hoà, mở đường cho quân Tống rút quân về nước, giành lại giang sơn, giữ vững bờ cõi Đại Việt.
Khẳng định chủ quyền đất nước, phân định rõ ràng về lãnh thổ là những ý chính trong câu thơ đầu tiên của người anh hùng Lý Thường Kiệt. Mở đầu bài thơ là câu thơ đanh thép khẳng định quyền độc lập tự chủ của dân tộc:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư”
(Sông núi nước Nam, vua Nam ở)
“Nam quốc” ở đây ý chỉ nước Nam, với mục đích xác định rõ ràng ranh giới đất nước. Việc xưng “Nam quốc” đã thể hiện rõ ràng kiên định lập trường về đất nước. Bởi lẽ một ngàn Bắc Thuộc tuy đã kết thúc khi Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng nhưng nhà nước Trung Hoa vẫn chỉ xem nước ta là một quận Giao Chỉ thuộc Trung Hoa. Vì vậy việc khẳng định “Nam quốc” mang một ý nghĩa đặc biệt.
Câu thơ ngắt nhịp 4/3, tách thành hai vế “sông núi nước Nam”, “vua Nam ở”. Đây là hai vế có mối quan hệ mật thiết gắn bó. Ý thức về không gian lãnh thổ đất nước quan trọng nhưng việc xác định quyền làm chủ đối với lãnh thổ ấy còn quan trọng hơn gấp bội. Tương xứng với “Nam quốc” đó chính là “Nam đế”.
Trong quan niệm của Trung Hoa của có duy nhất vua của Trung Hoa mới xứng là hoàng đế, là thiên tử còn những nước khác chỉ dám xưng vương, chư hầu không có nước nhỏ nào dám xưng đế ngang hàng với Trung Hoa. Duy chỉ có nước ta đã khẳng định mạnh mẽ ta và Trung Hoa đều là những nước độc lập có quyền bình đẳng như nhau. Và nước Nam là thuộc chủ quyền của người nước Nam mà đại diện đứng đầu là vua Nam.
Trong một dòng thơ ngắn nhưng hai từ “Nam” xuất hiện không chỉ tạo nhịp điệu cho câu thơ mà còn khẳng định ý thức chủ quyền mạnh mẽ. Phân tích Nam quốc sơn hà, ta thấy nếu so với Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi – xác định chủ quyền trên nhiều phương diện hơn.
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Còn trong bài thơ “thần” này tuy chỉ mới xác định và khẳng định chủ quyền đối với lãnh thổ chưa toàn diện nhưng điều đó không làm giảm đi ý nghĩa của bài thơ. Cơ sở xác định chủ quyền dân tộc qua câu thứ thứ hai. Để xác định chủ quyền đất nước, Lý Thường Kiệt đã đưa ra những căn cứ:
“Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.”
(Biên giới rõ ràng có ghi tại sách trời.)
“Tiệt nhiên” là rành rành, rõ ràng, có đạo lí chính đáng không ai có thể thay đổi hay chối cãi được. Còn “định phận” là xác định các phần. Và trong trường hợp này “phận” ở đây chính là chủ quyền lãnh thổ đất nước thiêng liêng. Nếu đối với Nguyễn Trãi ông xác định căn cứ vào lịch sử thì Lý Thường Kiệt lại căn cứ vào thiên thư. Chủ quyền của vua Nam đối với đất nước là việc có ghi sẵn trong sách trời. “Thiên thư” chính là sách trời, chính sách trời đã định phận cho nước Nam có bờ cõi riêng. Như một định luật, một điều hiển nhiên về chủ quyền đất nước không thể chối cãi.
Nếu ở câu đầu đưa ra lời khẳng định thì ở câu thơ sau là lời chứng minh. Tuy cơ sở chứng minh, xác định có phần mang tính duy tâm nhưng cần nhìn nhận lại bối cảnh lịch sử đương thời để hiểu rõ hơn. Người xưa cho rằng vạn vật hữu linh và cuộc sống con người là do bàn tay tạo hóa sắp đặt. Con người không được vượt quyền tạo hóa, bởi vậy mà hành động xâm phạm biên giới của nước khác không chỉ là sự xúc phạm đối với đất nước đó mà còn là sự xúc phạm đến thần linh. Chính vì đất nước của vua nam chính vì điều đó đã được xác định rõ ràng nên cuộc xâm lăng của giặc đã phạm vào định phận của đất trời nên chắc chắn sẽ thất bại.
Lời khẳng định đanh thép và bày tỏ sự căm giận quân giặc sâu sắc. Ta thấy từ việc khẳng định chủ quyền đất nước, ông đã đi đến lời kết án và khẳng định đanh thép về ý chí quyết tâm chống giặc của con dân Đại Việt.
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?”
(Sao mà bọn giặc lại tới xâm phạm?)
“Như hà” có ý nghĩa là làm sao, “nghịch” nghĩa là trái ngược, “lỗ” là bọn mọi rợ. Ở đây “lỗ” ý chỉ bọn giặc ngoại xâm. Chúng chẳng khác nào giống mọi rợ khi xâm lược lãnh thổ nước ta. Không chỉ xâm lăng đe dọa nền hòa bình độc lập của dân tộc mà chúng còn giày xéo đất đai khiến nhân dân phải chịu nhiều khổ đau, nước mắt căm hờn cứ thế mà chảy dài khắp cả đất nước.
Đây là một câu hỏi tu từ vừa bao hàm thái độ ngạc nhiên vừa lại khinh bỉ. Ngạc nhiên là bởi lẽ tại sao thiên triều, kể vốn xưng là con trời – thiên tử lại dám làm trái ý trời, can thiệp vào sự xoay vần của con tạo. Khinh bỉ là vì một nước vốn cho mình có vị thế cao hơn những nước khác lại ỷ mạnh ăn hiếp yếu, xâm chiếm lãnh thổ của nước nhỏ hơn trong khi nước ta vẫn cống nạp giữ gìn tình bang giao.
Chính vì vậy việc ta bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đất nước là việc làm chính nghĩa hợp lòng dân thuận theo ý trời nên ta chiến đấu với một tâm thế vững vàng. Ta bảo vệ giang sơn đất nước tổ tiên bao đời gây dựng, ta bảo vệ cuộc sống của những người dân nghèo, ta bảo vệ chính nghĩa…
Đối ngược là giặc ngoại xâm, chúng xâm lăng với mục đích không chính đáng vì vậy đây là cuộc xâm lược phi nghĩa nhằm thỏa mãn nhu cầu quyền lực, tham vọng bá chủ. Chúng đã gây ra bao tội ác trời không dung đất không tha. Chính vì dã tâm của giặc và ta là người nắm trong tay lẽ phải nên giọng thơ dõng dạc, hào sảng. Phân tích Nam quốc sơn hà sẽ thấy nhà thơ đã ý thức rõ tâm thế và mục đích của hai cuộc chiến nên ông đã có những lời thơ mạnh mẽ hào hùng.
“Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
(Lũ bây hãy xem sẽ ôm lấy thất bại.)
“Nhữ đẳng” là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai có nghĩa một lũ bây, “khan” là một cách đọc khác của khán là xem. Còn “thủ” là nhận lấy, “bại” là thua, “hư” mang ý nghĩa là không vào đâu cả. Câu thơ cuối đã khẳng định một cách chắc chắn về kết quả cuộc chiến. Kết quả đó không phải là một chuyện viển vông cũng chẳng phải một ảo tưởng mà đó là sự đúc kết từ nhiều yếu tố.
Đó là từ mục đích của cuộc chiến, từ yếu tố chính nghĩa của kháng chiến và cũng từ truyền thống thống chống giặc ngoại xâm bất khuất của dân tộc ta. Quân ta có thể ít về số lượng, không có vũ khí chiến đấu có thể đây là một cuộc chiến không cân sức, tương quan chênh lệch lực lượng sâu sắc nhưng quan trọng nhất đó chính là ngọn cờ chính nghĩa đã thuộc về phe ta.
Còn bởi tình yêu nước nồng nàn sâu lắng của mỗi con dân đất Việt kết nối lại tạo thành một nguồn sức mạnh khổng lồ giúp nước ta có thể chiến thắng trước bao cuộc chiến xâm lược phi nghĩa của quân bất nghĩa phương Bắc. Giặc phương Bắc không thấu tình đạt lí thông hiểu lẽ trời mà bị sự tham làm làm cho mờ mắt. CHúng đến xâm lược phi nghĩa thì kết quả sẽ là tay trắng ra về, nhục nhã ê chề trong thất bại mà quay về nước.
Bài thơ đã khẳng định chủ quyền cũng như ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của đất nước ta. Truyền thống lịch sử đã xác lập một chân lý dân tộc ta từ bao đời luôn đứng trên chính nghĩa, nắm trong tay lẽ phải để chống lại mọi cuộc chiến ngoại xâm. Mục đích ấy và truyền thống hào hùng ấy đã được nối tiếp từ bao đời để luôn giữ vững hòa bình dân tộc.
Sau này không chỉ là giặc xâm lược phương Bắc mà còn là thực dân Pháp, Nhật, Mĩ. Cuộc chiến ngày một khốc liệt hơn nhưng kết quả chiến thắng vẫn thuộc về ta vì ta chiến đấu để bảo vệ non sông gấm vóc. Giọng điệu đanh thép, hào hùng ấy sẽ mãi ngân vang. Xuyên suốt cả bài thơ không một chút run sợ trước sức mạnh của Bắc triều mà luôn giữ vững một niềm tin chiến thắng.
Ta cũng bắt gặp tâm thế ấy trong Bình Ngô đại cáo, Hịch tướng sĩ,… Tuy nếu xét về phương diện hoàn chỉnh có thể bài thơ chưa có cái nhìn bao quát về các phương diện chưa chỉ rõ tội ác của giặc nhưng tính chất và giọng điệu của bài thơ sẽ mãi khắc ghi vang vọng cùng non sông.
Chỉ với vỏn vẹn hai mươi tám từ ngắn gọn cô đúc nhưng bài thơ đã truyền tải được một ý chí một sức mạnh lớn lao phi thường về ý thức chủ quyền lãnh thổ, về tinh thần quật cường của dân tộc ta. Bài thơ khép lại nhưng những tư tưởng ấy vẫn còn mãi cùng thời gian. Đó chính là sức sống của tác phẩm…