31/03/2021, 15:29

Bài văn phân tích tác phẩm "Hầu trời" của Tản Đà số 1 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Hầu trời" của Tản Đà hay nhất

Tản Đà là một trong những nhà thơ lớn vào những năm đầu thế kỷ XX. Những đóng góp của ông cho nền văn chương Việt Nam với những tác phẩm đặc sắc làm xao động cả giới văn đàn. Tản Đà được ví như là một cầu nối giữa hai thế kỷ và là nhân tố tiêu biểu đặt nền móng cho sự phát triển của ...

Tản Đà là một trong những nhà thơ lớn vào những năm đầu thế kỷ XX. Những đóng góp của ông cho nền văn chương Việt Nam với những tác phẩm đặc sắc làm xao động cả giới văn đàn. Tản Đà được ví như là một cầu nối giữa hai thế kỷ và là nhân tố tiêu biểu đặt nền móng cho sự phát triển của dòng thơ mới.


Đọc các tác phẩm thơ của Tản Đà chúng ta sẽ thấy được chất từ giản dị trong câu thơ, thấy được một tâm hồn lãng mạn nhưng cũng đầy phong cách. Thơ của Tản Đà rất độc đáo nhưng vẫn giữ được cốt cách của thơ ca dân tộc. Ngày hôm nay chúng ta hãy cùng nhau phân tích bài thơ “Hầu Trời” để thấy được cái tôi của nhà thơ Tản Đà.

Phân tích bài thơ “Hầu Trời” để thấy được cái tôi của nhà thơ Tản ĐàVới lối thơ thất ngôn trường thiên tự do và phóng khoáng. Cộng với chất tự sự các yếu tố trong tình huống, nhân vật hay lời kể đã tạo nên một tác phẩm rất đặc biệt. Tác phẩm “Hầu Trời” chính là một sự hư cấu tưởng tượng của chính tác giả.


Sau khi đọc bài thơ chúng ta sẽ thấy được sự say mê trong đó, sự kết hợp của cảm hứng lãng mạn và hiện thực. Ba sự việc được trình bày một cách khá trật tự từ việc lý do lên trời đọc thơ, cảnh đọc thơ và thái độ ngợi ca tán thưởng của trời và chư tiên, và cuộc chia tay trong xúc động và lưu luyến. Cách mở đầu câu chuyện của thi sĩ Tản Đà thực sự gây ấn tượng với người đọc:


Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng,


Đây chỉ là một lời thông báo về sự việc “được lên tiên – sướng lạ lùng” vào đêm qua mà nhiều người chúng ta nghĩ là chuyện bịa. Nhưng cách dẫn dắt của thi nhân khiến người ta tin đó là thật, mà thật một cách đầy tự nhiên, chứ không hề gượng gạo. Ông cũng đặt ra nghi vấn chẳng biết có hay không theo kiểu khoa học nhưng vẫn khẳng định rằng: không hoảng hốt, không mơ mòng và có đến bốn cái thật khiến người ta tin.


Cách mở đầu câu chuyện vì thế mà đầy khéo léo và duyên dáng, đến nỗi nhà thơ Xuân Diệu cũng trầm trồ, thán phục. Tình huống độc đáo, hấp dẫn của câu chuyện được mở ra. Ngay sau đó, thi sĩ trình bày lý do được lên tiên cũng đầy lạ lùng. Trong đêm khuya trăng sáng, lúc canh ba, nằm buồn một mình, tác giả ngồi dậy đun nước uống rồi ngâm nga văn thơ.


Bỗng thấy hai cô tiên xuống,

vì tiếng ngâm vang cả sông

Ngân Hà khiến Trời không ngủ được

nên Trời mời lên đọc để nghe qua.


Đúng là có vẻ khó tin nhưng cách giải thích đầy hóm hỉnh và tự nhiên như thế khiến người đọc thấy được sự thú vị, đời thường và cũng đáng tin. Câu chuyện vì thế càng gợi thêm sự tò mò, hấp dẫn. Vậy đối diện với Trời, thi sĩ sẽ thể hiện mình như thế nào?


Thi nhân được đón tiếp vô cùng nồng nhiệt, được ngồi ghé bành như tuyết vân mây, được thể hiện tài năng của mình, được những khán giả đặc biệt theo dõi đó chính là Trời và các chư tiên. Thật là một điều thú vị chưa từng có, đến mơ cũng chẳng mơ đến được. Chỉ đến đây thôi chúng ta cũng thấy được thi sĩ Tản Đà thực sự là có một tâm hồn bay bổng. Lên trời để ngâm thơ, đọc thơ, thực sự hứng khởi, thực sự tự hào:


– Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn thuyết lí lại văn chơi

– “Bẩm con không dám man cửa Trời

Chửa biết con in ra mấy mươi?”


Đáng chý ý nhất ở đoạn này không phải là “gia tài văn chương” nhiều, đa dạng mà thi nhân nhắc tới, càng không có ý phô diễn tài năng giày thay, lắm lối hay cố ý khoe cái hay, cái đẹp do mình tạo ra, mà đó là niềm say mê, tự hào, niềm phấn chấn, hào hứng đối với những sáng tác của mình.


Sở dĩ có được điều đó là bởi vì dường như thi sĩ đã tìm thấy một đối tượng tri âm nghệ thuật quá đỗi đặc biệt như thế. Nghe thơ văn của người đời mà Trời, các chư tiên nào là nở dạ, lè lưỡi, chau đôi mày, lắng tay đứng, cùng vỗ tay, lại còn hưởng ứng trên mức yêu thích:


Chư tiên ao ước tranh nhau dặn

– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”


Những lời tán thưởng của Trời càng khẳng định điều đó:

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!


Có thể nói khung cảnh tuy trên trời nhưng cũng không hề xa lạ, cung cách rất đời thường và ngay cái cách chư tiên gọi thi sĩ là “anh” cũng rất dễ thương. Có lẽ bởi vậy mà việc được hầu Trời đọc thơ văn là một cách để nhà thơ Tản Đà bộc lộ hết thảy sự sảng khoái của bản thân, cũng là cách tự đề cao, tự khẳng định mình trước xã hội rất tinh tế. Đồng thời cũng có cả nỗi niềm khao khát được tri âm, đồng cảm của cuộc đời. Qua đây thấy được một cái tôi đầy phóng khoáng, táo bạo, cái tôi ngông đầy tài hoa.


Vậy là việc lên trời của thi nhân không đơn thuần là “trần thế em nay chán nửa rồi”, là để tự khẳng định tài năng, cá tính độc đáo của nhà thơ, mà đó còn là cái cớ để giãi bày tâm sự về chuyện nghề, chuyện đời. Trời nghe văn thơ xong, khen nức nở liền hỏi danh tính. Tản Đà thật đến độ cũng chẳng giấu giếm gì, tên tuổi, nghề nghiệp đều nói ra.


Trời sai suy xét thì phát hiện có tên Nguyễn Khắc Hiếu, đày xuống hạ giới vì tội ngông, thực chất là sai xuống làm việc “thiên lương” của nhân loại. Vẫn biết bài thơ thể hiện rất rõ đặc trưng của hồn thơ Tản Đà, nhưng chắc hẳn đến đây nhiều người đọc nghĩ, có thể đến mức này thì quả là một cá tính quá ngông và táo bạo.


Tài năng đã vượt xa mức bộc lộ, cái ngông, cái khát vọng làm những việc thiện cho đời. Tản Đà đã từng một đời ôm mộng tưởng cải cách văn chương nhưng không thành. Và có lẽ qua câu chuyện chúng ta thấy được nhà thơ nhắc tới cái sứ mệnh này. Và có nhiều lý do để cho thấy Tản Đà thực sự quá sức với mệnh trời ban.


Bởi: – “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó”. Vào thời đại của mình, Tản Đà được biết đến là người đầu tiên đem “văn chương ra bán phố phường”. Nhưng sự đời ngặt nghèo không dễ dàng như người ta tưởng, gia tài là bụng văn nhưng tấc đất không có, nào giấy, nào mực, nào cửa hàng đều của người, giá lại rẻ, lãi ít mà tiêu nhiều, học hành thêm thì tuổi đã cao.


Nói đến việc thiện lương trong cái cuộc sống đời thường này không chỉ đối với tản đà mà giới văn nghệ sĩ đầu thế kỷ XX này cũng thực sự chật vật, khó khắn. Lên được đến trời là cơ hội để ông giãi bày sự tình ấy. Với bút pháp hiện thực, nhà thơ đã trải lòng mình như mong mỏi một niềm cảm thông, khát khao tìm kiếm được sự tri âm, sự khẳng định bản thân giữa cuộc đời.


Cuộc vui nào cũng có hồi chấm dứt. Trở về trần thế trong niềm tiếc nuối ngậm ngùi. Những câu thơ cuối vang lên có một chút buồn bã, nhưng đầy thi vị. Tiếng gà gáy, tiếng người nơi trần thế đã đánh thức nhà thơ. Cái cảm giác lên mây tựa gió ngâm thơ kết thúc. Cuộc đời thi sĩ Tản Đà thực sự bay bổng, thèm khát được lên trời. Những giây phút thăng hoa của nhà thơ sau khi đọc lên bài thơ chính là những thăng hoa trong nghệ thuật, trong cái tôi cả Tản Đà.


Một cái tôi vô cùng phóng túng, hiểu rõ về tài năng giá trị của bản thân mình. Một sự khao khát giữa cái đời thường một điều chẳng có thật. Nhưng bất cứ ai sau khi đọc xong bài thơ “Hầu Trời” đều thấy được những nét gần gũi, và hóm hỉnh đầy tự nhiên.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

nhi nguyen

238 chủ đề

2591 bài viết

Cùng chủ đề
Có thể bạn quan tâm
0