Bài văn phân tích nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn "Bến quê" số 9 - 10 Bài văn phân tích nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn "Bến quê" của Nguyễn Minh Châu
“Cây đa, bến nước, mái đình Nghìn năm sâu đậm nghĩa tình quê hương”. Câu ca dao gợi tình cảm quê hương, gợi nhớ những bến quê quen thuộc. Bến quê nơi có những xóm chài với dăm ba mảnh thuyền giăng lưới. Bến quê, nơi có cái xóm lẻ với những rặng tre xanh, vài cây sung chín ...
“Cây đa, bến nước, mái đình
Nghìn năm sâu đậm nghĩa tình quê hương”.
Câu ca dao gợi tình cảm quê hương, gợi nhớ những bến quê quen thuộc. Bến quê nơi có những xóm chài với dăm ba mảnh thuyền giăng lưới. Bến quê, nơi có cái xóm lẻ với những rặng tre xanh, vài cây sung chín rụng. Và cái bến quê ấy đã đi vào sáng tác của Nguyễn Minh Châu qua truyện ngắn “Bến quê”. Nhưng đâu chỉ là những nét tả chân cái bến quê nào đó, qua tác phẩm, tác giả còn muốn gửi gắm những suy nghĩ trải nghiệm sâu sắc của nhà văn trước cuộc đời, thức tỉnh mọi người về những vẻ đẹp và giá trị cao quý của những điều bình dị gần gũi quanh ta.
Năm 1980, năm lịch sử Việt Nam có nhiều biến động về an ninh quốc phòng, về kinh tế, văn hóa tư tưởng… Với Nguyễn Minh Châu nó còn là thời điểm, một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp văn chương của ông. Nhà văn có nhiều tìm tòi đổi mới về đề tài và phong cách sáng tác. Có thể kể đến “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Cỏ lau”… và một “Bến quê” với dấu ấn khó quên có ý nghĩa tổng kết cuộc đời một con người.
“Bến quê” được rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên, là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn để lại nhiều dư ba tốt đẹp. Qua một cốt truyện giản dị, một tình huống nghịch lí nhưng cũng rất đời thường, nhà văn đã phát hiện ra những chiều sâu mới của đời sống với bao quy luật và nghịch lí, vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của những cách nhìn, cách nghĩ trước đó của xã hội và của chính tác giả. Triết lí trong “Bến quê” góp phần chứng minh các cuộc đời đa sự, con người đa đoan và cuộc đời con người chẳng giản đơn chút nào.
Cốt truyện được xây dựng trên một tình huống chứa đựng mâu thuẫn. Nhân vật chính là anh Nhĩ, người đã từng đi khắp đó đây, biết nhiều hiểu rộng, thế giới với anh là không xa lạ nhưng cuối đời lại bị cột chặt trên giường bệnh bởi căn bệnh hiểm nghèo. Cái trớ trêu của cuộc đời là ở chỗ đó, khi có thể Nhĩ đã không làm cái điều anh nên làm; còn khi nhận ra cái mình phải thực hiện, anh lại không thể làm được. Cuộc đời con người là xâu chuỗi những nghịch lí.
Nằm trên cái giường đặt cạnh cửa sổ, Nhĩ có thể quan sát được toàn cảnh. Nhưng nhất cử nhất động phải nhờ vào mọi người. Những ngày tháng nằm trên giường bệnh toàn thân bại liệt như thế, Nhĩ đã có những suy nghĩ gì? Tình huống nghịch lí thứ hai lại xuất hiện không kém phần kịch tính: Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sống ngay phía trước cửa sổ vào một buổi sáng chớm thu mà bình thường anh đã vô tình không nhận ra dù nó ỗ quanh anh, rất gần. Nhĩ đã nhờ con trai giúp mình thực hiện khát khao đó, nhưng rồi cậu ta mải chơi và để lỡ chuyến đò ngang.
Tạo ra một xâu chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn người đọc suy nghĩ về một vấn đề của cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài dự định ước muốn, từ đó mở ra một nội dung triết lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả đời người, của tính người: “Con người ta trênđường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình…”.
Cảnh vật được tả theo tầm nhìn của Nhĩ, từ gần đến xa, tạo thành một không gian có chiều sâu, rộng: từ “Những chùm hoa bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng đậm sắc hơn…” đến những “dòng sông màu đỏ nhạtnhư rộng thêm”, “vòm trời như cao hơn”, “Bờ bãi màu vàng thau xen màu xanh non…”. Cảm nhận về một buổi sáng chớm thu thật tinh tế, cảnh vật vừa quen vừa lạ, tưởng chừng như lần đầu tiên cảm thấy tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó.
Nhĩ hỏi vợ đến hai câu về không gian (Đêm qua em có nghe thấy tiếng gì không?) và về thời gian (Hôm nay là ngày mấy?), nhưng đều nhận được thái độ im lặng khác thường của vợ. Liên – vợ anh – né tránh câu trả lời bởi nó báo hiệu điềm gở xảy ra. Dường như cảm nhận được điều đó qua thái độ của vợ, Nhĩ nhận ra mình sắp từ giã cuộc đời, anh phải đối diện với thực tế đau buồn, bi đát và không lối thoát này. Một chút xót xa, tiếc nuối, đau đớn trong lòng.
Phải chăng cái gì ta đang có thì ít khi nhận ra giá trị của nó, còn cái gì ta sắp mất ta mới cảm nhận nó quý giá vô cùng. Điều đó càng đúng hơn với trường hợp của Nhĩ. Cô gái chít khăn nâu mỏ quạ mới hôm nào theo anh về nhà sống đoan trang, nết na, chu toàn bổn phận, anh ít khi quan tâm cái vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của chị. Đến hôm nay, nằm trên giường bệnh được chị chăm sóc tận tụy, hi sinh cả chuyện áo quần để chồng có chén thuốc chữa bệnh, cử chỉ chăm sóc nhẹ nhàng chu đáo, lời nói ân cần… là tất cả kho báu của đời anh. Thế mà mãi đến bây giờ chân lí ấy mới sáng tỏ. Anh nhận ra cô gái chân quê ấy trở thành chỗ dựa tinh thần, là mái ấm của anh trong những ngày cuối đời. Có muộn màng lắm không đối với Nhĩ và cả với Liên?
Nhĩ chợt nghĩ ra một sáng kiến: anh nhờ con trai thực hiện nguyện vọng cuối cùng của mình là đặt chân sang bờ bãi bên kia sống Hồng, lòng mong con hiểu được ý định của mình và càng mong có được những cảm nhận và rung động của mình khi sang bến bờ bên kia. Nhưng cuộc đời đâu đơn giản như thế, không phải điều gì muốn là được toại nguyện. Thật ra, khát khao được sang bãi bồi bên kia sống đâu phải là chuyện lớn lao, khó khăn. Nhưng cái đó đối với Nhĩ thì không thể thực hiện được. Còn đứa con trai không hiểu ý bố. Nó vô tư dừng lại bên đường sa vào phá cờ thế để lỡ chuyến đò ngang, chuyến đò duy nhất trong ngày. Nhĩ không trách con, chỉ ngẫm nghĩ và tự trách mình. Con trai anh đã bỏ lỡ cơ hội này nhưng nó còn nhiều cơ hội khác còn anh thì đã để mất tất cả, kể cả cơ hội cuối cùng. Anh gửi gắm ước mơ, nguyện vọng nơi con trai – máu mủ của mình – mà nó vẫn không hiểu bố. Hai thế hệ khó hiểu nhau và cảm thông nhau cũng là điều đáng buồn.
Ở cuối truyện Nhĩ có một hành động có vẻ kì quặc nhưng ta có thể hiểu được anh đang muốn gì. Anh hối hả giục anh con trai đang mải xem cờ thế, nhanh chân cho kịp chuyến đò. Nhưng cũng có thể hiểu rộng hơn nhà văn muốn thức tỉnh mọi người hãy sống khẩn trương, sống có ích,đừng la cà, chùng chình, dềnh dàng ở những cái vòng vèo vô bổ mà chúng ta rất dễ sa đà, để dứt ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực vốn giản dị, gần gũi và bền vững.
Nhà văn sáng tạo ra những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng. Trong “Bến quê”, hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó thống nhất. Dù có ý nghĩa biểu tượng nhưng trước hết nó vẫn có giá trị tả thực. Đó là hình ảnh bãi bồi bên sống, hoa bằng lăng cuối mùa, những tảng đất lở ở bờ sông, đứa con trai mải chơi phá cờ thế, Nhĩ khoát khoát tay… tất cả đều có ý nghĩa biểu tượng nhưng vẫn giàu sức gợi tả và biểu cảm.
Giọng kể ở ngôi thứ ba của một người ngoài cuộc nhưng lại rất đồng cảm với nhân vật Nhĩ vì được kể từ tầm nhìn của Nhĩ. Cách xây dựng tâm lí nhân vật phù hợp với tình huống và diễn biến câu chuyện. Những đoạn miêu tả rất sinh động bằng đường nét, màu sắc tạo hình, gợi cảm. Tình huống truyện đơn giản mà bất ngờ và nghịch lí.
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu nói chung và “Bến quê” nói riêng, chúng ta đều có chung một cảm nhận: hay và sâu sắc. Nhà văn đã len lỏi vào lâu đài nội tâm của con người để khai thác và thể hiện. Tính nhân văn và triết lí rất cao. Nếu không có những trải nghiệm thực tế, nếu không có những tìm tòi công phu chắc hẳn Nguyễn Minh Châu khó có được những thành công như hôm nay.