Bài văn phân tích đoạn trích "Lục Vân Tiên gặp nạn" số 3 - 10 Bài văn phân tích đoạn trích "Lục Vân Tiên gặp nạn" của Nguyễn Đình Chiểu hay nhất
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước sống ở cuối thế kỉ XIX , cuộc đời của ông gặp nhiều đau thương, bất hạnh. Xã hội nhiều biến động lớn lao, nhưng sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Đình Chiểu lại là những dấu ấn tinh thần lớn lao của thời đại và xã hội ấy trong đó tác phẩm Lục Vân ...
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước sống ở cuối thế kỉ XIX , cuộc đời của ông gặp nhiều đau thương, bất hạnh. Xã hội nhiều biến động lớn lao, nhưng sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Đình Chiểu lại là những dấu ấn tinh thần lớn lao của thời đại và xã hội ấy trong đó tác phẩm Lục Vân Tiên là một truyện thơ Nôm điển hình.
Bên cạnh Lục Vân Tiên là nhân vật trung tâm, người anh hùng lý tưởng phò đời cứu dân lành, ta còn thấy nhân vật ông Ngư cũng mang nhiều vẻ đẹp trong sáng của người dân lương thiện hiền lành sống thanh cao, trong sạch được thể hiện rất rõ trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn.
Trịnh Hâm là một tên bất nhân và bội nghĩa. Bất nhân vì Trịnh Hâm độc ác, đang tâm hãm hại một con người tội nghiệp, đang cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa ( Vân Tiên lúc này đã mù mắt), tiền bạc không còn, may nhờ Tiểu đồng dìu dắt, tớ thầy đang bơ vơ “màn trời chiếu đất” rất khổ sở.
Bội nghĩa vì Vân Tiên là bạn của Trịnh Hâm, từng gặp gỡ “trà rượu”, khi vừa tới trường gặp lại bạn, Vân Tiên đã có lời mời nhờ cậy “tình trước ngãi sau – có thương xin giúp nhau phen này”. Và Trịnh Hâm cũng đã từng hứa hẹn “Đương thơm hoạn nạn gặp nhau – Người lành nỡ bỏ người sau sao đành”. Vậy mà ngay lập tức Trịnh Hâm đã nuốt lời.
Kẻ gây tội ác không vô tình mà có âm mưu sắp đặt khá kĩ lưỡng, chặt chẽ.Hắn đã nói : “Hại Tiên phải dùng chiêu này mới xong”. Trước hết , hắn lừa tiểu đồng vào rừng hái lá thuốc, rồi trói vào gốc cây để cho hổ ăn thịt. Rồi giả bộ thương xót ,đưa Vân Tiên xuống thuyền, hứa sẽ đưa về đến nhà.
Hắn đợi khi thuyền đã ra đến giữa ‘vời” , lại đêm tối mịt mùng (“nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay”) mới ‘ra tay’ hành động. Đến lúc biết không có ai có thể cứu vớt Vân Tiên được nữa, hắn mới lên tiếng “kêu trời” để đánh lừa mọi người, che giấu tội ác của mình. Điều đó cho thấy TRịnh Hâm là đứa gian ngoa, xảo quyệt.
Trong cuộc hội ngộ uống rượu, làm thơ trong quán giữa bốn người bạn Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, thấy Vân Tiên tài cao, Trịnh Hâm đã tỏ rõ thái độ ganh ghét, đố kị.
Kiệm Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa nầy Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Đến lúc này điều lo ấy dường như đã không còn có cơ sở, vậy mà Trịnh Hâm vẫn tìm cách hãm hại Vân Tiên, chứng tỏ cái ác tâm như đã trở thành bản chất của hắn, đã ngấm vào máu thịt hắn. Dục vọng thấp hèn đã biến hắn trở thành con người độc ác, nhẫn tâm.
Bên cạnh hành động tội ác của Trịnh Hâm thì còn có việc làm nhân đức và tính cách cao thượng của ông Ngư, ta phân tích hai câu thơ:
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mạ hơ mặt mày.
Câu thơ mộc mạc, hầu như không đẽo gọt trau chuốt, chỉ kể lại sự việc một cách tự nhiên, giản dị, nhưng lại gợi tả được hết mối chân thành của cả một gia đình đối với người bị nạn: cả nhà hối hả chạy chữa để cứu sống Vân Tiên bằng những phương cách dân dã ‘vầy lửa’, ‘hơ bụng dạ’, ‘hơ mặt mày’. Có thể thấy ở đâu một tình cảm thương xót, chăm chút rất ân cần chu đáo.
Sau khi đã cứu sống Vân Tiên, biết tình cảm của chàng, ông Ngư đã đề nghị Vân Tiên ở lại, sẵn sàng cưu mang chàng, dù cuộc sống của gia đình ông cũng chỉ “hẩm hút” rau cháo qua ngày. Ông cũng chẳng hề tính toán đến cái ơn cứu mạng và Vân Tiên không biết lấy gì báo đáp. Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.
Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, không phải chỉ một lần Nguyễn Đình Chiểu nói đến tấm lòng hào hiệp, trọng điều nhân nghĩa, không vụ lợi cá nhân này. Khi Lục Vân Tiên đánh tan lũ cướp, cứu thoát Kiều Nguyệt Nga, đã khẳng khái tuyên bố:
Làm ơn há nghĩa trông người trả ơn. Và ông Tiều, sau khi cứu Vân Tiên ra khỏi hang Thương Tòng cũng đáp lời tạ ơn của chàng: Làm ơn mà lại trông người sao hay?
Thấy việc nghĩa thì làm, không tính toán thiệt hơn, không chờ đợi báo đáp, đó cũng là một nét đẹp nhân cách của ông Ngư, một người lao động bình thường. Cuộc sống của ngư ông là một cuộc đời lao động bình thường của dân chài lưới trên sông nước, được cảm nhận bằng con mắt và trái tim của nhà thơ nên có phần thi vị hóa.
Đó là một cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc ; một cuộc sống tự do giữa thiên nhiên cao rộng, hòa nhập với thiên nhiên, bầu bạn với thiên nhiên, một cuộc sống lạc quan, ung dung, thanh thản, bởi con người tự mình làm chủ, có thể ứng phó với mọi tình thế tìm thấy niềm vui trong công việc lao động tự do của mình.
Phải nói rằng đây là một đoạn thơ hay của tác phẩm bởi nó chính là tiếng nói của ông – Nguyễn Đình Chiểu. Nhà thơ tô đậm nhân cách cao đẹp của ông Ngư không chỉ muốn nói lên một sự thực ở đời mà còn muốn nhân đó bộc lộ những quan niệm sống, những điều mong ước thiết tha nhất của mình. Ngôn ngữ trong đoạn thơ vẫn giữ được vẻ mộc mạc, bình dị, dân dã nhưng lời thơ thanh thoát, hình ảnh thơ đẹp gợi cảm (“hứng gió”, ‘chơi trăng’, ‘một bầu trời đất’, ‘tắm mưa trải gió’…)