Bài văn phân tích đoạn trích "Hai cây phong" số 6 - 10 Bài văn phân tích đoạn trích "Hai cây phong" trong "Người thầy đầu tiên" của Ai-ma-tố
Hai cây phong là phần đầu của truyện tả cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, hồi tưởng lại kỉ niệm êm đềm về hai cây phong của chốn quê dào dạt tâm hồn đứa con đi xa về thăm nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trích đoạn này đã thể hiện một cách đằm thắm, thiết tha tình yêu cố hương, biểu lộ lòng ...
Hai cây phong là phần đầu của truyện tả cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, hồi tưởng lại kỉ niệm êm đềm về hai cây phong của chốn quê dào dạt tâm hồn đứa con đi xa về thăm nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trích đoạn này đã thể hiện một cách đằm thắm, thiết tha tình yêu cố hương, biểu lộ lòng biết ơn người thầy đầu tiên đã trồng cây và trồng nơi thảo nguyên hoang vu mênh mông.
Cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, chốn quê thân yêu của nhân vật “tôi” – họa sĩ, sau những năm tháng đi xa trở về thăm làng. Phần đầu trích đoạn nói về cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, chốn quê thân yêu của nhân vật “tôi” – họa sĩ, sau những năm tháng đi xa trở về thăm làng. Những tiếng: “Lùng Kur-ku-rêu chúng tôi”… “phía dưới làng tôi…”, “phía trên làng tôi” cất lên thật gợi cảm, đầm ấm và mến thương biết bao! Làng ở “ven chân núi” trên một cao nguyên.
Cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, bao la. Có “thung lũng đất vàng”, có cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan “mênh mông”. Có khe nước “ào ào từ miền ngách đả đổ xuống”, có rặng núi Đen và con đường sắt “băng qua dồng hằng chạy tít đến tận chân trời phía tây”. Cảnh sắc quê hương được cảm nhận bằng nhừng hình ảnh đường nét đậm nhạt, cao thấp, gần xa làm hiện lên một không gian nghệ thuật rất đẹp với bao yêu mến tự hào của một đứa con đối với cố hương, của một họa sĩ tài hoa trước thiên nhiên kì thú. Sau câu chữ và cảm xúc dâng trào với bao bồi hồi thương nhớ.
Nhớ làng Kur-ku-rêu đối với đứa con xa quê trở về là nhớ hai cây phong trên đồi cao ở đầu làng. Họa sĩ biết hai cây phong “từ thuở bắt đầu biết mình”, một sự gắn bó thiết tha với cả một đời người. Hai cây phong lớn “như những ngọn hải đãng đạt trên núi ” từng gây ân tượng đối với bất cứ ai, dù “đi từ phía nào ” đến thăm làng Kur-ku-rêu. Riêng đối với họa sĩ, mồi lần về thăm quê nhà đã “từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy ” và tự coi đó là “bổn phận đầu tiên ” của mình. Với họa sĩ, tình yêu quê hương đã chan hòa, đã gắn bó với tình thương nhớ hai cây phong lớn đầu làng.
Nhớ hai cây phong đối với họa sĩ là nhớ “với một nỗi buồn da diết”; nên càng về gần tới làng lại càng nhớ. Đứa con li hương tự hỏi thầm lòng mình: “Ta sắp dược thấy chúng chưa, hai cây phong sinh dôi ấy? Mong sao chóng về tại làng, chóng lên đồi mà đến vsi hai cây phong!” và hạnh phúc biết bao đối với đứa con xa quê lâu ngày mơi trở về, được “đứng dưới gốc để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất ”.
Nhớ cây phong đối với khách tha hương là nhớ “tiếng nói riêng”, “tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu” của nó. Nhớ cây phong là nhớ dáng hình của nó, nhớ thân cây “nghiêng ngả” nhớ âm thanh “rì rào” của lá cành “lay động” cả ban ngày hay ban đêm. Ai-ma-tốp đã sáng tạo nên hàng loại ẩn dụ, so sáng và nhân hóa để gợi tả và biểu cảm về “tiếng nói riêng” “tâm hồn riêng” của hai cây phong quê nhà “như một làn sóng thủy triều dâng lên, vồ vào bãi cát”, “như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyền qua lá cành , như một đốm lửa vô hình”.,.
Có lúc hai cây phong tưởng như đang trầm tư “bỗng im bặt một thoáng” rồi “lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”….Nếu cây tre, lũy tre làng ta, trong “Bão bùng thân bọc lấy thân – Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm” (Nguyễn Duy), thì cây phong làng Kur-ku-rêu, cây phong thảo nguyên trong mây đen và bão dông bị “xô gãy cành, tỉa trụi lá” , nó vẫn “dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháv rừng rực”. Hai cây phong có một sức sống vô cùng mãnh liệt, biểu tượng cho bao phẩm chất tốt đẹp của con người quê hương, con người thảo nguyên.
Đây là đoạn văn hay nhất, giàu hình tượng và biểu cảm nhất nói về hay cây phong, thể hiện một sự tin tưởng kì diệu, phong phú với tất cả tình yêu nồng hậu đối với hoa cỏ, cây lá: một đoạn văn đáng học thuộc, đáng nhớ: … “Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn…và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Họa sĩ yêu hai cây phong quê nhà với tất cả tấm lòng và tình nghĩa thủy chung, như ông đã lâm sự: “Tuổi trẻ của tôi đã dể lại mùa ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh ”. “Mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh ” ấy là tâm hồn tuổi thơ vô cùng trong sáng.
Phần hai trích đoạn “Hai cây phong”, tác giả kết hợp-tự sự với miêu tả, nhắc lại kỉ niệm tuổi thơ êm đềm. Hoài niệm tuổi thơ về quê hương bao giờ cũng đằm thắm, thiết tha. Với con người Việt Nam chúng la, mỗi lần đi xa nhớ quê là nhớ hương vị đậm đà “nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”, là nhớ con đò, cánh diều biếc, nhớ cây đa, giếng nước, sân đình, là nhớ dòng sông quê mẹ với bao kỉ niệm một thời thơ bé: “Bạn hè tôi tụm núm tụm bảyBầy chim non bơi Ịội trên sôngTôi đưa tay ôm nước vào lòngSông mở nước ôm tói vào dạ.. ”(“Nhớ con sông quê hương ” – Tế Hanh)
Nhân vật họa sĩ nhớ quê hương, nhớ làng Kur-ku-rêu là nhớ kỉ niệm tuổi thơ với cây phong thân thương. Không bao giờ có thể quyê được “buổi học cuối cùng” năm ấy, trước khi bắt đầu nghỉ hè. Bọn con trai nghịch ngợm và hồn nhiên “reo hò, huýt còi ầm ĩ” chạy lên đồi…. Hai cây phong như những người bạn thân tình mở lòng đón tiếp: “chúng nghiêng ngã đung đưa như muốn chào mời… đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền”. “Lũ nhóc con đi chân đất” trèo lên hai cây phong “làm chấn động cả vương quốc loài chim”. Trên ngọn cây phong, “những cành cao ngất” bọn trẻ nhỏ làng Kur-ku-rcu vô cùng sung sướng ngắm nhìn cảnh vật gần xa. Chúng tưởng như “có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt… Cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”.
Cây phong đã mơ rộng tầm mắt, làm sáng lên tâm hồn tuổi thơ, làm cho lũ trẻ “sửng sốt”. Tất cả đều “nín thở ngồi im lặng”… phóng tầm mắt về bốn phía chân trời. Bức tranh quê hương hiển hiện, như mở rộng, như vẫy gọi. Chuồng ngựa của nông trang, dải thảo nguyên hoang vu, “xa thẳm biên biếc”. Những dòng sông xa lạ “lấp lánh tận chân trời như những sợi chí hạc mỏng manh”. Lũ trẻ “lắng nghe tiếng gió ào huyền ”, tiếng “thì thầm to nhỏ” của “lá cây đáp lại lời gió”, rồi chúng nghĩ về những miền đất lạ nơi chân trời xa xôi, về bầu trời, những đám mây, những đồng cỏ, sông ngòi, “những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thắm biên biếc kia”.
Cậu bé – họa sĩ tương lai vô cùng xúc động “lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướg:… ; lòng mơ tương và “cố hình dung ra những miền xa lạ kia”. Hai cây phong trên đồi quê không chỉ mở rộng tầm mắt mà còn nâng cánh ước mơ cho những em bé làng Kur-ku-rêu bay tới những chân trời xa xôi tươi sáng… Sau này, khi đã trưởng thành, nhân vật họa sĩ mới tự hỏi lòng mình: điều mà thuở ấu thơ chưa hề nghĩ đến “Ai là ngựời đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ những niềm hy vọng gì khi vun xới chúng mù đây, trên đỉnh đồi cao này?”
Tuổi thơ non nớt cũng không hiểu vì sao quả đồi có hai cây phong ấy, bà con làng mình gọi là “Trường Đuy-sen “. Tình cảm “ăn quả nhớ kẽ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn” đã được Ai-ma-tốp diễn tả một cách tinh tế, sâu lắng, đầy chất thơ. Phần sau truyện “Người thầy đầu tiên” đã nói rõ tình cảm, tư tưởng tốt đẹp đó. Trích đoạn Hai cây phong là trang văn chứa chan thi vị, đã thể hiện một cách sâu sắc tình yêu quê hương, tình yêu cây cỏ, cảnh sắc thiên nhiên quê nhà. Những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ và lòng biết ơn người thầy đầu tiên của đời mình, của quê hương mình đã làm nên chất thơ của truyện.
Đoạn văn tả tiếng nói riêng, tâm hồn riêng của cây phong là hay nhất. Đoạn văn kể lại kỉ niệm tuổi thơ treo lên hai cây phong nhìn về bốn phía chân trời là cảm động nhất. Dòng hồi tưởng, nỗi nhớ hai cây phong của nhân vật họa sĩ như được chắt lọc từ nơi sâu thẳm tâm hồn, rất chân thực, hồn nhiên và trong sáng, vẻ đẹp cây phong là vẻ đẹp thảo nguyên phương Bắc. Hai cây phong là bài ca nghĩa tình về quê hương, về người thầy vĩ đại đã “trồng cây và trồng người”…