Bài soạn "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" số 5 - 6 Bài soạn "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" của Nguyễn Huy Tưởng lớp 11 hay nhất
Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm I. Tác giả 1. Cuộc đời - Nguyễn Huy Tưởng sinh 6 – 5 – 1912 trong một gia đình nhà nho ở Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội). - Sớm tham gia cách mạng và phong trào văn hoá cứu quốc, Nguyễn Huy Tưởng còn là đại biểu quốc hội khoá I. - Là ...
Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm
I. Tác giả
1. Cuộc đời
- Nguyễn Huy Tưởng sinh 6 – 5 – 1912 trong một gia đình nhà nho ở Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội).
- Sớm tham gia cách mạng và phong trào văn hoá cứu quốc, Nguyễn Huy Tưởng còn là đại biểu quốc hội khoá I.
- Là nhà văn có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có những đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch.
2. Sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn thành công với nhiều thể loại văn học, cụ thể:
- Kịch: Vũ Như Tô (1941), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948).
- Kịch bản phim Luỹ hoa (1960).
- Tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1945), Sống mãi với thủ đô (1961)
- Kí: Kí sự Cao Lạng (1951)...
3. Phong cách nghệ thuật
- Văn phong của Nguyễn Huy Tưởng trong sáng, giản dị, đôn hậu nhưng thâm trầm, sâu sắc.
- Ông nổi tiếng với các tác phẩm viết về đề tài lịch sử và có đóng góp lớn ở thể loại tiểu thuyết và kịch.
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh xuất xứ
- Vũ Như Tô là vở kịch 5 hồi, viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 - 1517 dưới triều Lê Tương Dực.
- Đoạn trích "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" nằm trong hồi V (Một cung cấm) của vở bi kịch lịch sử Vũ Như Tô (1941).
2. Nội dung chính
- “Vũ Như Tô” là vở bi kịch lịch sử năm hồi viết về một sự kiện có thật xảy ra ở kinh thành Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517, dưới triều Lê Tương Dực. Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài để tạo nên một công trình nghệ thuật, để tiếng thơm cho đời, đó là việc làm đúng đắn tuy nhiên việc xây dựng công trình to lớn, nguy nga này phải dùng công sức và xương máu của nhân dân chỉ để cho vua ăn chơi sa đọa. Nhân dân phản kháng và giết chết Vũ Như Tô cùng cung nữ Đan Thiềm.
- Thông qua bi kịch của Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đã gửi gắm những quan niệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời: Đó là mối quan hệ hữu cơ giữa khát vọng nghệ thuật của người nghệ sĩ và đời sống của nhân dân, vận mệnh của dân tộc.
- Tóm tắt vở kịch Vũ Như Tô:
Vũ Như Tô là một nhà kiến trúc tài giỏi, một nghệ sĩ có chí lớn, tính tình cương trực, trọng nghĩa kinh tài. Lê Tương Dực, một hôn quân bạo chúa, sai Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi ăn chơi với đám cung nữ. Vũ đã từ chối dù bị đe dọa kết tội tử hình. Song Đan Thiềm, một cung nữ tài sắc nhưng đã bị ruồng bỏ, đã khuyên Vũ nên nhận lời xây dựng Cửu Tràng Đài vì đây là cơ hội để Vũ đem tài ra phục vụ đất nước, “Ông cứ xây lấy một tòa đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi, nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện...”. Vũ đã nhận lời và dồn hết sức xây Cửu Trùng Đài. Nhưng Cửu Trùng Đài đã làm cho dân chúng thêm cực khổ. Họ đã nổi dậy. Vũ Như Tô bị giết, Cửu Trùng Đài bị thiêu trụi.
3. Ý nghĩa nhan đề
- Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - nhan đề tác phẩm chứa đựng nhiều ẩn ý nhưng cũng là một lời chào vĩnh biệt trực tiếp sự huỷ diệt của đài Cửu Trùng.
- Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài cũng là vĩnh biệt vẻ đẹp cao siêu, lí tưởng mà con người (trong những hoàn cảnh nhất định khó hòng đạt tới. Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài cũng nhằm kết thúc mọi oán thán, hận thù của con người do nó mà trở nên lao khổ hay độc ác.
4. Bố cục đoạn trích
- Đoạn trích gồm có 9 lớp kịch xoay quanh sự kiện quân phản loạn đốt phá Cửu Trùng Đài, bắt giết những người sáng tạo ra nó, chôn họ trong tro tàn Cửu Trùng Đài.
Đọc - hiểu văn bản
Bài 1 trang 193 SGK Ngữ văn 11 tập 1
Các mâu thuẫn cơ bản của kịch Vũ Như Tô được thể hiện cụ thể như thế nào trong hồi V?
Trả lời:
- Mâu thuẫn giữa phe nổi loạn và phe Lê Tương Dực.
+ Phe nổi loạn gồm nhiều nhân vật: dân chúng, thợ xây dựng Cửu Trùng Đài các nhân vật này đã xuất hiện từ trong những đoạn trước. Đoạn này, các nhân vật chỉ xuất hiện trong lời của Đan Thiềm: Dân gian đói kém nổi lên tứ tung. Khi dân nổi lên họ nông nổi vô cùng. Các nhân vật này cũng xuất hiện qua lời của tên nội gián: Thợ xây Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch.
+ Phe đối lập trong triều đình đứng đầu là Trịnh Duy Sản, sau Trịnh Duy Sản là Ngô Hạch, An Hoà Hậu (nhân vật này chỉ được nói đến chứ không xuất hiện). Mâu thuẫn này trong hồi 5 đã lên đến đỉnh điểm và đã được giải quyết dứt điểm. Trịnh Duy Sản, Ngô Hạch giết chết Lê Tương Dực. Đây là mâu thuẫn bị chi phối bởi các mâu thuẫn khác và được các mâu thuẫn ấy làm cho tăng lên.
- Mâu thuẫn giữa phe Trịnh Sản với Kim Phượng và các cung nữ vì coi đó là phương tiện hành lạc của Lê Tương Dực cũng được đẩy lên ở đỉnh cao, Kim Phượng và cung nữ đã lái sự căm ghét đó sang Đan Thiềm, Vũ Như Tô để mong bớt tội, mong thoát mũi kiếm trừng phạt của Ngô Hạch.
- Bản thân mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô cũng được thể hiện rõ trong hồi thứ 5 này. Một phần lớn thợ xây Cửu Trùng Đài tham gia cuộc nổi loạn vì họ bị đói khổ (vì bị ăn chặn, chết, bị thương, vì tai nạn, bệnh dịch,... chính bản thân Vũ Như Tô cũng bị đã đè vào chân), một số thợ bị Vũ Như Tô chém (để duy trì quân số và kỉ luật lao động trên công trường xây Cửu Trùng Đài). Đan Thiềm cũng bị nhiều thợ oán như oán Vũ Như Tô vì biết Đan Thiềm “xui" Vũ Như Tô nhận xây Cửu Trùng Đài.
Vũ Như Tô vì say sưa với công trình nghệ thuật, quên cả thực tế và lòng dân. Đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan Thiềm báo cho Vũ Như Tô biết bị giết đến nơi nhưng Vũ Như Tô vẫn không chịu đi vì cho rằng mình là người vô tội, còn muốn chứng minh sự quang minh chính đại của mình, còn hi vọng thuyết phục được An Hoà Hầu. Và đặc biệt là Vũ Như Tô muốn sống chết với Cửu Trùng Đài, vì ông coi Cửu Trùng Đài là lẽ sống, nếu Cửu Trùng Đài bị phá thì ông cũng không thiết sống nữa. Đây là mâu thuẫn giữa con người công dân và con người nghệ sĩ trong Vũ Như Tô và Đan Thiềm, tập trung ở Vũ Như Tô (tức là mâu thuẫn giữa lòng căm ghét tên hôn quân với khát vọng xây dựng một công trình nghệ thuật lớn cho đất nước, cho đời sau).
- Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời (Cửu Trùng Đài) và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.
+ Mâu thuẫn này có nguồn gốc từ nguyên nhân sâu xa: người chiến sĩ thiên tài có khát vọng, hoài bão muốn mang cái đẹp đến cho đời, làm dân tộc tự hào vì trong một xã hội thối nát, người dân đói khổ triền miên trong lầm than
+ Hoàn cảnh đất nước không tạo điều kiện cho Vũ Như Tô thực hiện điều đó
+ Vũ Như Tô nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm mượn uy quyền, tiền bạc của hôn quan Lê Tương Dực để thực hiện khát vọng xây dựng công trình nguy nga
+ Niềm khao khát sáng tạo, cống hiến lại đối nghịch với thực trạng lợi ích và mong muốn của nhân dân.
Bài 2 trang 193 SGK Ngữ văn 11 tập 1
Phân tích tính cách, diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong đoạn trích.
Trả lời:
* Tính cách và diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô
- Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ chân chính, một người có tài và có tâm với nghệ thuật.
- Ông nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm, nhận xây dựng Cửu Trùng đài là vì mục đích nghệ thuật rất cao cả. Ông là người nghệ sĩ chỉ quan tâm đến nghệ thuật. Trong hồi kịch này, khi binh lính nổi dậy, kết tội ông và đòi hủy diệt Cửu Trùng Đài, ông vẫn không thể hiểu nổi tại sao lại như vậy. Vũ Như Tô quá chú ý đến nghệ thuật mà quên đi quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Ông luôn ở trong tâm trạng mơ màng, ảo vọng. Ông không thể hiểu và không tin tâm huyết của mình đối với đất nước lại bị coi thường.
=> Nghệ sĩ vỡ mộng trước thực tế đau xót của đất nước, nhân dân mà lâu nay đã không nhìn thấy do ông chỉ chạy theo cái lí tưởng của nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời.
* Tính cách và diễn biến tâm trạng của Đan Thiềm
- Đan Thiềm là một người có tâm, biết trọng người tài, tôn trọng nghệ thuật. Bà kính trọng tài năng của Vũ Như Tô, bà hiểu công việc sáng tạo nghệ thuật của ông. Nhưng chính Đan Thiềm đã sai lầm và cuối cùng bà cũng nhận ra sai lầm của mình khi khuyên Vũ Như Tô nhận lời xây dựng Cửu trùng đài. Trước khi chết, bà đã nhận ra sự thất bại của giấc mộng lớn mà bà và Vũ mong mỏi thực hiện. Nhìn cảnh Cửu trùng đài bị đốt, Vũ Như Tô bị giết, bà đã đau đớn cất lên “Đài lớn tan tành. Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt!”.
=> Đan Thiềm và Vũ Như Tô là hai kẻ tri âm, tri kỉ, cùng có một mục đích nghệ thuật tốt đẹp nhưng cuối cùng đều thất bại. Và cả Cửu Trùng đài, tâm huyết của hai người cũng bị phá huỷ. Hai con người đáng thương, đáng trọng hơn là đáng trách. Nhà văn đã bộc lộ sự cảm thông và trân trọng của ông đối với hai con người tri âm tri kỉ và bất hạnh này.
Bài 3 trang 193 SGK Ngữ văn 11 tập 1
Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời và lợi ích thiết thực của nhân dân chưa được tác giả giải quyết dứt khoát. Điều đó được thể hiện như thế nào ở hồi cuối cùng của vở kịch? Theo anh (chị) nên giải quyết mâu thuẫn ấy như thế nào?
Trả lời:
Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần túy và lợi ích thiết thực của nhân dân là mâu thuẫn không dễ giải quyết. Vì thế, việc Nguyễn Huy Tưởng chưa giải quyết triệt để được mâu thuẫn này là điều dễ hiểu. Nhà văn để cho Vũ Như Tô bị giết mà không hiểu tại sao. Đan Thiềm, Vũ Như Tô cùng Cửu Trùng Đài bị hủy diệt đã đặt ra một vấn đề lớn, vấn đề quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Với đoạn trích Vĩnh biệt Cửu trùng đài, Nguyễn Huy Tưởng đã giải quyết được phần nào mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật đích thực phải thống nhất với quyền lợi của con người. Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người. Người nghệ sĩ khi làm nghệ thuật phải chú ý đến điều đó.
Việc quần chúng giết Vũ Như Tô có lí đúng: nếu Vũ Như Tô không xây Cửu Trùng Đài thì chắc Lê Tương Dực không thể xây được Cửu Trùng Đài, gây thiệt hại cho nhân dân. Nhưng quần chúng nhân dân trong cơn nông nổi giận dữ, có thể chưa hiểu hết Vũ Như Tô. Quần chúng lúc đó cũng chưa nghĩ đến công sức của chính mình bỏ ra cho công trình nghệ thuật mà có thể lưu lại cho con cháu muôn đời sau. Việc nổi dậy giết Lê Tương Dực là đúng, việc tạm hoãn xây Cửu Trùng Đài là đúng nhưng việc giết Vũ Như Tô là quá tay và việc phá huỷ Cửu Trùng Đài là không nên.
Bài 4 trang 193 SGK Ngữ văn 11 tập 1
Đặc sắc nghệ thuật của kịch Vũ Như Tô được thể hiện qua đoạn trích?
Trả lời:
- Mâu thuẫn kịch tập trung dẫn đến cao trào, phát triển thành đỉnh điểm với những hành động kịch dồn dập đầy kịch tính.
- Ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao.
- Xây dựng nhân vật kịch đặc sắc, khắc họa rõ tính cách, miêu tả đúng tâm trạng qua ngôn ngữ và hành động.
- Lớp kịch trong hồi V được chuyển một cách linh hoạt, tự nhiên, logic, liền mạch tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.
Luyện tập
Câu hỏi luyện tập trang 193 SGK Ngữ văn 11 tập 1
Trong lời đề tựa kịch Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng viết:
"Than ôi! Như Tô phải hay những người giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm".
Bằng những hiểu biết về đoạn trích và về vở kịch, anh (chị) hãy phát biểu ý kiến của mình về lời đề tựa trên.
Trả lời:
- Đây là phần cuối của lời đề tựa vở kịch Vũ Như Tô do chính Nguyễn Huy Tưởng viết ngày 6 tháng 2 năm 1942, sau khoảng một năm viết xong tác phẩm.
- Tựa là phần nằm ngoài văn bản của một tác phẩm, được viết ở đầu sách hoặc sau tiêu đề của mỗi chương trong cuốn sách nhằm hướng người đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả hoặc tư tưởng của tác phẩm.
- Qua lời đề tựa trên, Nguyễn Huy Tưởng đã chân thành bộc lộ những băn khoăn của mình: Lẽ phải thuộc về Vũ Như Tô hay những kẻ giết Vũ Như Tô? Và ông thú nhận "Ta chẳng biết", tức là không thể đưa ra một lời giải đáp thoả đáng. Qua vở kịch, có thế thấy chân lí không hoàn toàn thuộc về phía nào: Việc mất Cửu Trùng Đài vừa nên mừng, vừa nên tiếc. Đồng thời, nhà văn khẳng định: "Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm", tức là vì cảm phục "tài trời", vì nhạy cảm với bi kịch của những tài năng siêu việt mà thôi.
Tổng kết
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân,... .
Đoạn trích thể hiện những đặc sắc về nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao; dùng ngôn ngữ, hành động của nhân vật để khắc hoạ tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt và đẩy xung đột kịch đến cao trào.