Bài soạn "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn" số 4 - 6 Bài soạn "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn" của Ngô Sĩ Liên lớp 10 hay nhất
KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM I. Tác giả - Ngô Sĩ Liên (chưa rõ năm sinh và năm mất) là người làng Chúc Lí, huyện Chương Đức, nay thuộc xã Chúc Sơn, huyện Chương Mĩ, Hà Nội. - Ông đỗ tiến sĩ năm 1442 dưới triều Lê Thái Tông, được cử vào Viện Hàn lâm. - Đến đời Lê ...
KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
I. Tác giả
- Ngô Sĩ Liên (chưa rõ năm sinh và năm mất) là người làng Chúc Lí, huyện Chương Đức, nay thuộc xã Chúc Sơn, huyện Chương Mĩ, Hà Nội.
- Ông đỗ tiến sĩ năm 1442 dưới triều Lê Thái Tông, được cử vào Viện Hàn lâm.
- Đến đời Lê Thánh Tông ông giữ chức Hữu thị lang bộ Lễ, Triều Liệt đại phu kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tu soạn Quốc sử quán
- Ông vâng lệnh Lê Thánh Tông biên soạn bộ Đại Việt sử kí toàn thư.
II. Tác phẩm và đoạn trích
- Đại Việt sử kí toàn thư là bộ chính sử lớn của Việt Nam thời trung đại đo Ngô Sĩ Liên biên soạn, hoàn tất năm 1979, gồm 15 quyển, ghi chép lịch sử từ thời Hồng Bàng cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi (1428).
- Đại Việt sử kí toàn thư được biên soạn dựa trên cơ sở sách Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu ở thời Trần và Sử kí tục biên của Phan Phu Tiên ở đầu thời Hậu Lê.
- Tác phẩm thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ, vừa có giá trị sử học vừa có giá trị văn học.
- Bố cục tác phẩm:
+ Phần Ngoại kỉ: viết về lịch sử nước ta thời Hồng Bàng đến thế kỉ X.
+ Phần Bản kỉ: viết tiếp từ thời Đinh Tiên Hoàng đến thời hậu Lê.
- Đoạn trích "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn" được trích từ quyển 5, phần Bản kỉ - Kỉ nhà Trần. Nội dung kể về chân dung Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (1226 - 1300), danh tướng Việt Nam, anh hùng dân tộc, con của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu của vua Trần Thái Tông.
ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
Câu 1 - Trang 44 SGK
Anh (chị) rút ra được điều gì qua lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với vua về kế sách giữ nước?
Trả lời:
- Nội dung lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với vua:
+ Nên tuỳ thời thế mà có sách lược phù hợp, binh pháp cần vận dụng linh hoạt, không có khuôn mẫu nhất định.
+ Điều kiện quan trọng nhất để thắng giặc là toàn dân đoàn kết một lòng.
+ Do đó phải giảm thuế khoá, bớt hình phạt, không phiền nhiễu dân, chăm lo cho dân có đời sống sung túc,... đó chính là "thượng sách giữ nước".
- Qua nội dung lời trình bày, người đọc nhận thấy Trần Quốc Tuấn không những là vị tướng tài năng, mưu lược, có lòng trung quân mà còn biết thương dân, trọng dân và biết lo cho dân.
Câu 2 - Trang 44 SGK
Chi tiết Trần Quốc Tuấn đem lời cha dặn ra hỏi ý hai người gia nô cùng hai người con và những phản ứng của ông khi nghe câu trả lời của họ có ý nghĩa như thế nào?
Trả lời:
Trần Quốc Tuấn đã có suy nghĩ của riêng mình đối với lời cha dặn: "Để điều đó trong lòng nhưng không cho là phải". Nhưng ông vẫn hỏi ý kiến hai người gia nô và hai người con để thử lòng.
- Trước lời nói của Yết Kiêu và Dã Tượng, ông "cảm phục đến phát khóc, khen ngợi hai người”.
- Trước lời nói của Hưng Vũ Vương, ông "ngầm cho là phải”.
- Trước lời nói của Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng, ông nổi giận rút gươm định trị tội và thậm chí sau này không muốn Quốc Tảng nhìn mặt ông lần cuối.
Qua những biểu hiện trên đây, ta có thể thấy Trần Quốc Tuấn là một người hết lòng trung nghĩa với vua, với nước, không mảy may tự tư tự lợi. Ông cũng là một người có tình cảm chân thành, nồng nhiệt, thẳng thắn, rất nghiêm trong việc giáo dục con cái.
Câu 3 - Trang 44 SGK
Đoạn trích đã làm nổi bật những đặc điểm gì về nhân cách của Trần Quốc Tuấn? Chỉ ra sự khéo léo của tác giả trong nghệ thuật khắc hoạ chân dung nhân vật (nhân vật được đặt trong những mối quan hệ và những tình huống như thế nào?)
Trả lời:
Để thấy được toàn bộ chân dung Trần Quốc Tuấn, ngoài các chi tiết trên, cần chú ý tới nhiều chi tiết khác như: lời phân tích của ông với nhà vua về cách đánh giặc, cách giữ nước khi ông lâm bệnh; mối hiềm khích giữa cha ông và Trần Thái Tông và lời dặn dò của cha...
Phẩm chất nổi bật ở Trần Quốc Tuấn được khắc hoạ là trung quân ái quốc. Lòng trung thành với vua của Trần Quốc Tuấn thể hiện ở tinh thần yêu nước sâu sắc và ý thức trách nhiệm công dân đối với nước. Ông hết lòng lo tính kế sách giúp vua giữ nước an dân. Lòng trung thành của ông được đặt trong hoàn cảnh có thử thách, bản thân ông cũng bị đặt trong mối mâu thuẫn giữa "hiếu" và "trung". Trần Quốc Tuấn đã đặt "trung" lên trên "hiếu", nợ nước trên tình nhà.
Bên cạnh phẩm chất trung quân ái quốc, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng anh hùng đầy tài năng, mưu lược đồng thời là con người có đức độ lớn lao.
Những phẩm chất trên đây của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn được tác giả sử kí khéo léo khắc hoạ trong nhiều mối quan hệ và đặt vào những tình huống có tính chất thử thách. Từ quan hệ với nước (câu nói nổi tiếng "Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng"), với vua đến quan hệ với dân (khi sống nhắc nhở vua "khoan sức dân", khi chết hiển linh phò trợ dân), với tướng sĩ dưới quyền (tận tâm dạy bảo, cử người tài), từ quan hệ đối với con cái (nghiêm khắc giáo dục) đến quan hệ đối với bản thân (khiêm tốn giữ đạo trung nghĩa)...Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, bất kì quan hệ nào, Trần Quốc Tuấn vẫn là một mẫu mực của một vị tướng toàn đức, toàn tài. Ông không những được nhân dân ngưỡng mộ mà cả quân giặc cũng phải kính phục.
Câu 4 - Trang 44 SGK
Anh (chị) có nhận xét gì về nghệ thuật kể chuyện trong đoạn trích?
Trả lời:
Ghi chép lịch sử là ghi chép theo trình tự thời gian nhưng cần chú ý là trong Đại Việt sử kí toàn thư, cách kể chuyện về các nhân vật lịch sử không đơn điệu theo trình tự thời gian.
Mở đầu đoạn trích là sự xuất hiện một sự kiện tạo nên một mốc đáng chú ý: "Tháng 6, ngày 24 sao sa". Theo quan niệm của người xưa, sao sa là điềm xấu. Điềm báo này báo hiệu Hưng Đạo Vương ốm nặng và sẽ qua đời.
Từ sự việc trên, nhà viết sử ngược dòng thời gian kể chuyện về Trần Quốc Tuấn. Tiếp đó, tác giả lại trở về với đòng sự kiện đang xảy ra: "Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất...". Sau thông tin này, tác giả nhắc cho những danh hiệu tôn quý mà Trần Quốc Tuấn được vua phong tặng. Đây không hoàn toàn là việc ôn lại một cách khô khan mà tất cả những công lao, đức độ của người quá cố được thể hiện trong những câu chuyện sinh động.
Nhà viết sử không chỉ kể chuyện một cách phức hợp, với nhiều chiều thời gian, mà còn khéo léo lồng vào câu chuyện những nhận xét sâu sắc nhằm định hướng cho người đọc có những nhận xét, đánh giá thỏa đáng.
Cách kể chuyện trong đoạn trích vừa mạch lạc, khúc chiết vừa giải quyết được những vấn đề then chốt về nhân vật đồng thời vẫn giữ được mạch truyện tiếp nối lôgic. Chuyện vì thế trở nên sinh động, hấp dẫn. Nhân vật lịch sử cũng vì thế mà được nổi bật chân dung.
Câu 5 - Trang 45 SGK
Chi tiết về lòng tin của dân chúng vào sự hiển linh của Hưng Đạo Vương, đặc biệt là hình ảnh ”tráp đựng kiếm có tiếng kêu” có ý nghĩa gì?
a) Cho thấy tín ngưỡng và những tập tục thờ cúng của nhân dân ta thời xưa.
b) Cho thấy lòng cảm phục và ngưỡng mộ của nhân dân đối với Hưng Đạo Vương sâu sắc đến mức họ đã thần thánh hóa ông, cho rằng ông đã trở thành thần linh để giúp dân, giữ nước.
c) Chỉ là những truyền thuyết để làm nổi bật tấm lòng thương dân yêu nước và khí phách anh hùng của ông – những nét đẹp đã trở thành bất tử trong lòng người.
d) Ý kiến khác.
Gợi ý:
Học sinh đặt trên cơ sở thực tiễn và nội dung của đoạn trích để phân tích từng tình huống:
- Ý (a): "cho thấy tín ngưỡng và những tập tục thờ cúng của nhân dân ta thời xa" là không đúng.
- Cả hai ý (b), (c): "Cho thấy lòng cảm phục và ngưỡng mộ của nhân dân đối với Hưng Đạo Vương sâu sắc đến mức họ đã thần thánh hoá ông, cho rằng ông đã trở thành thần linh để giúp dân, giúp nước" và "Chỉ là những truyền thuyết để làm nổi bật tấm lòng thương dân, yêu nước và khí phách anh hùng của ông - những nét đẹp đã trở thành bất tử trong lòng người" đều đúng.
- Vì vậy, cần chọn ý (d): “ý kiến khác" để đưa ra nhận xét tổng hợp và những ý kiến mang tính sáng tạo của bản thân, có thể liên hệ tới việc nhiều nơi hiện nay có đền thờ Hưng Đạo Vương, nhân dân tôn kính gọi Trần Quốc Tuấn là "Đức Thánh Trần".
LUYỆN TẬP
Câu 1 - Trang 45 SGK
Từ những chi tiết trong đoạn trích, anh (chị) hãy tóm tắt lại câu chuyện về Trần Quốc Tuấn (không quá 20 dòng).
Trả lời:
* Đoạn văn mẫu tóm tắt câu chuyện về Trần Quốc Tuấn:
Khi Hưng Đạo Vương ốm, vua ngự tới thăm và hỏi về kế sách chống giặc. Đại Vương kể khắp xưa nay rồi nói: muốn thắng trận phải tùy thời mà tạo thế. Điều cốt yếu là có một đội quân một lòng như cha con. Vả lại phải lấy dân làm gốc, đó là thượng sách giữ nước của đấng quân vương. Quốc Tuấn có tư chất từ nhỏ. Lớn lên dung mạo khôi ngô, tuấn tú, tài trí hơn người. Trước khi mất, cha ông dặn phải lấy cho được thiên hạ. Ông ghi nhớ lời cha nhưng không cho là phải. Sau ông đem chuyện ấy kể cho gia nô và hai người con trai nghe để phân định người hiền tài, kẻ bạc nhược nhỏ nhen. Tất thảy đều rõ ràng hết cả. Quốc Tuấn có công lớn, vua ban thưởng, gia phong là Thượng Quốc Công. Vua còn cho phép ông được quyền phong tước cho người khác. Nhưng ông chưa bao giờ phong tước cho ai. Quốc Tuấn từng soạn sách để kêu gọi, khích lệ binh tướng xả thân cứu nước giúp vua. Ông lại khéo tiến cử rất nhiều người hiền tài cho đất nước. Bản thân Đại Vương cũng từng ra quân hàng trăm trận, lập nên công nghiệp hiếm có, tiếng vang còn truyền đến tận mai sau.
* Tóm tắt câu chuyện về Trần Quốc Tuấn bằng cách liệt kê ý chính
- An Sinh Vương hiềm khích với Trần Thái Tông, trước lúc mất dặn con phải lấy được thiên hạ; Quốc Tuấn ghi nhớ lời dặn của cha nhưng không cho là phải, một lòng kính cẩn giữ tiết làm tôi. Ông đi hỏi ý kiến hai người gia nô và hai người con.
- Quốc Tuấn soạn sách Binh gia diệu lí yếu lược để dạy các tướng, sưu tập binh pháp các nhà làm thành Bát quái cưu cung đồ.
- Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, liên tiếp đánh bại hai lần người Nguyên vào cướp.
- Quốc Tuấn được Thánh Tông cho phép được phong quyền phong tước cho người khác, từ Minh tự trở xuống, chỉ có tước Hầu thì phong trước rồi râu sau; nhưng ông chưa bao giờ phong tước cho một người nào.
- Ngày 24, tháng 6, năm 1300, Hưng Đạo Đại Vương ốm, vua ngự tới thăm và hỏi về kế sách giữ nước.
- Ngày 20 tháng 8, năm 1300, Hưng Đạo Đại Vương mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, được tặng Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Câu 2 - Trang 45 SGK
Sưu tầm những câu chuyên có liên quan đến Trần Quốc Tuấn hoặc những bài thơ viết về ông (từ các tư liệu lịch sử, các tài liệu văn học, các giai thoại trong dân gian).
Trả lời:
* Câu chuyện thần tướng hiển linh cho danh tướng mượn thuyền:
Một hôm, khi đêm đã về khuya, vị Quốc công Tiết chế vẫn thức để suy nghĩ về phương kế đánh giặc, rồi sau mệt quá thiếp đi trên bàn làm việc lúc nào không hay. Trong giấc mơ, ông thấy có một vị thần tướng mạo khác thường, mắt sáng như sao, mặc áo bào đỏ tiến tới và nói:
- Tôi là Phi Bồng đại tướng quân, biết tướng quân hiện nay không có đủ thuyền cho đội thủy quân bày trận chống giặc nên đến giúp. Sáng mai tướng quân cho người đến bến Lục Đầu, tôi sẽ cấp đủ số thuyền mà tướng quân cần.
Nói xong vị thần biến mất. Trần Hưng Đạo giật mình tỉnh giấc mới hay đó là một giấc mơ nhưng hình dáng và lời nói của vị thần đó vẫn còn nhớ rõ. Ông liền ra sân vái thiên địa và cầu xin thần linh hộ quốc, phù giúp việc chống giặc, sau đó vào trướng nằm nghỉ.
Sáng sớm hôm sau, khi mới thức dậy Trần Hưng Đạo thấy một viên tùy tướng vào báo:
- Bẩm Quốc công, quân lính đi tuần thấy chuyện vô cùng kỳ lạ. Đêm qua không rõ thuyền ở đâu kéo về đậu kín cả bến sông.
Hưng Đạo Vương vội đến xem xét, ông tin rằng vị thần trong giấc mộng đã giúp mình số thuyền này nên thầm cảm tạ rồi giao cho binh tướng dưới quyền phân chia, sắp xếp thuyền cho đội thủy quân để bày trận chống giặc.
Câu chuyện thực hư thế nào chúng ta đều biết rõ nhưng có một sự thực rằng vào tháng 5 năm đó (1285) quân ta đã đánh tan đạo quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy tại đây.
* Giai thoại về chiến công đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược
Phạm Nhan tên chữ là Bá Linh, cha người Quảng Đông, sang buôn bán bên nước Nam, lấy vợ làng An Bài, huyện Đông Triều, sinh được Bá Linh. Lớn lên Bá Linh theo cha về Tàu học hành, đỗ tiến sĩ triều nhà Nguyên, lại cao tay ấn phù thủy có phép tàng hình biến hoá, thường vào cung trị bệnh cho cung nữ. Do tính dâm đãng, rồi thường biến thành con gái vào cung tư thân với cung nhân. Về sau lộ chuyện, chúa Nguyên dùng phép bắt được định án trảm quyết. Để chuộc tội, Bá Linh tình nguyện xin đi làm hướng đạo (chỉ đường) sang đánh Nam quốc.
Vì có tà phép, nên Phạm Nhan điều khiển âm binh, hô mưa gọi gió khiến nhiều lần quân ta thất thủ. Để diệt Phạm Nhan, Hưng Đạo Vương nói: “Ta thủa xưa có học được dị thuật, ta lập thành đồ trận gọi là Cửu cung bát quái, lại may có một thanh thần kiếm, vậy để ngày mai ta dẫn quân vào thành dàn trận, đánh nhau với quân Nguyên, kỳ bắt được yêu nhân mới thôi.
Hưng Đạo Vương bày thành đồ thế. Khi Phạm Nhan dẫn 500 quân đánh vào, Hưng Đạo vương cầm thanh kiếm thần, niệm chú mấy câu rồi cầm là cờ vàng phất lên. Phạm Nhan thất trận phải dùng đến phép độn giáp để biến mất, còn 500 quân thì bị chết và bị bắt sống, quân Nguyên phải rút lui. Sau đó Hưng Đạo vương sai Yết Kiêu đi đục thuyền bắt Phạm Nhan, nhưng cứ bắt được thì nó lại biến mất. Ngài bèn dặn: "Định bắt Phạm Nhan phải trữ sẵn chỉ ngũ sắc, chờ khi bắt được, dùng dây ấy quấn quanh mình nó thì nó không biến hình được” Yết Kiêu làm theo, quả nhiên như vậy.
Khi bị dẫn ra pháp trường hành hình, cứ chém đầu này thì Phạm Nhan lại mọc ra đầu khác, Hưng Đạo Vương nổi giận rút thanh kiếm thần chém một nhát chết tươi tên tướng giặc.
Bá Linh bị chém đầu, chết đi uất hận hoá làm tà thần, quỷ quái. Nó đi khắp nước hễ gặp đâu có phụ sản là theo quấy nhiễu làm cho đau ốm, gầy mòn không thuốc nào chữa khỏi. Dân gian gọi nó là ma Phạm Nhan và đến cầu cứu Trần Hưng Đạo. Ngài viết cho hai câu “Sinh kiếp dĩ ô Trần nhuệ kiếm. Từ hồn do xuyết phụ nhân quần?” (nghĩa là: sống đã làm nhơ gươm báu nhà Trần. Nay chết lại còn bám đàn bà làm chi?). Người bị bệnh đem về dán ở nhà là khỏi.