Bài soạn "Hầu trời" của Tản Đà số 6 - 6 Bài soạn "Hầu trời" của Tản Đà lớp 11 hay nhất
I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG 1. Tản Đà (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Quê hương ông nằm bên sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Bút danh Tản Đà là tên ghép của hai địa danh ấy. ...
I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Tản Đà (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Quê hương ông nằm bên sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Bút danh Tản Đà là tên ghép của hai địa danh ấy.
Tản Đà mang đầy đủ tính chất "con người của hai thế kỉ" (Hoài Thanh), kể cả về học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương. Ông xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến nhưng lại sống theo phương thức của tầng lớp tiểu tư sản thành thị "Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu"; học chữ Hán từ nhỏ nhưng lại sớm chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ và rất ham học hỏi để tiến kịp thời đại; là nhà nho nhưng ít chịu khép mình trong khuôn phép nho gia. Sáng tác văn chương của Tản Đà chủ yếu vần theo các thể loại cũ nhưng nguồn cảm xúc lại rất mới mẻ... Điều đó anh hưởng không nhỏ đến cá tính sáng tạo của thi sĩ. Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng chói trên thi đàn.
Điệu tâm hồn mới mẻ, "cái tôi" lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh vừa cảm thương, ưu ái trong thơ văn Tản Đà đã chinh phục thế hệ độc giả mới đầu thế kỉ XX. Giữa lúc thơ phú nhà nho tàn cuộc, Tản Đà có lối đi riêng, vừa tìm về với ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc vừa có sức sáng tạo độc đáo, tài hoa. Thơ văn ông có thể xem như một cái gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
2. Thơ Tản Đà hay nói về cảnh trời. Điều đó đã trở thành mô tip nghệ thuật có tính hệ thống trong thơ ông. Ông tự coi mình là một trích tiên, tức là vị tiên trên trời bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Có lúc tỏ ra chán đời, ông Muốn làm thằng cuội để cùng chị Hằng "Tựa nhau trông xuống thế gian cười". Có lúc mơ màng ông muốn theo gót Lưu Thần, Nguyễn Triệu lạc bước vào chốn Thiên Thai. Táo bạo hơn, ông còn mơ thấy mình được lên Thiên đình, hội ngộ với những mĩ nhân cổ kim như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi, cùng đàm đạo văn chương, chuyện thế sự với các bậc tiền bối như Nguyễn Trãi, Hàn Thuyên, Đoàn Thị Điểm. Hồ Xuân Hương,... thậm chí cả với cụ Khổng Tử,... Ông còn Viết thư hỏi Giời và bị Giời mắng,... Bài Hầu Trời là một khoảnh khắc trong chuỗi cảm hứng đầy lãng mạn đó.
Bài thơ ra đời vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX. Vào thời điểm đó, lãng mạn đã là điệu tâm tình chủ yếu của thời đại. Xã hội thuộc địa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau. Người trí thức có lương tri không thể không chấp nhận nhập cuộc, nhưng chống lại nó thì không phải ai cũng đủ dũng khí để làm. Bất bình nhưng bất lực, người ta chỉ có thể mong ước thoát li, làm thơ để giải sầu. Thơ Tản Đà thời này "đã nói lên đúng cái sầu bàng bạc trong đất nước, tiềm tàng trong tim gan người ta" (Xuân Diệu). Nhưng Tản Đà khác người ở chỗ, ngay từ đầu những năm 20 đã dám mạnh dạn thể hiện bản ngã "cái tôi" của mình với "cái buồn mơ màng, cái cảm xúc chơi vơi" (Xuân Diệu), với khát vọng thiết tha đi tìm một cõi tri âm để có thể khẳng định tài năng, phẩm giá đích thực của mình, bởi chẳng thể nào trông đợi ở "cõi trần nhem nhuốc bao nhiêu sự" này. Cái ngông của Tản Đà cũng là ở đó.
3. Qua câu chuyện Hầu Trời, Tản Đà đã mạnh dạn tự biểu hiện "cái tôi" cá nhân - một "cái tôi" ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực cúa mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời.
II - HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
Câu 1. Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ thể hiện tài hư cấu nghệ thuật độc đáo và có duyên của Tản Đà:
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.
Chuyện kể về một giấc mơ, chính tác giả lúc tỉnh mộng cũng hãy còn bàng hoàng "chẳng biết có hay không". Đó là một cách "nhập đề" lạ, một sự "hư cấu" nghệ thuật. Nó là cái cớ "hoàn hảo" để nhân vật trữ tình bộc bạch tự nhiên cảm xúc trong "cõi mộng" của mình.
Cách vào đề như thế đã gây được một mối nghi vấn, gợi trí tò mò của người đọc. Cách vào chuyện như thế vừa độc đáo, lại rất có duyên.
Câu 2. Câu chuyện chính trong "giấc mơ" của Tản Đà là việc nhà thơ được đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe. Thi sĩ tỏ ra rất cao hứng và có phần tự đắc (Đương cơn đắc ý đọc đã thích... - Văn dài hơi tốt ran cung mây! - Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay... - Chửa biết con in ra mấy mươi? - Văn đã giàu thay, lại lắm lối...).
Chư tiên nghe thơ cũng rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ tài thơ của Tàn Đà (Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi - Hằng Nga, Chức Nữ chau đòi mày - Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng - Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay).
Ông Trời thì khen rất nhiệt thành:
Trời lại phê cho: "Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
để rồi tác giả còn được mời để xưng tên tuổi nữa.
Đoạn thơ này thể hiện khá rõ cá tính và niềm khao khát chân thành của thi sĩ. Tản Đà đã rất ý thức về tài năng của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã "cái tôi" đó. Tản Đà rất ngông khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng thượng đế và chư tiên. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới văn chương rẻ như bèo, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ tri âm, phải lên tận cõi tiên này mới có thể thoả nguyện. Vào đầu những năm 20, khi thơ phú nhà nho tàn cuộc mà thơ mới chưa ra đời, Tản Đà là nhà thơ đầu tiên trong văn học Việt Nam đã dám mạnh dạn hiện diện bản ngã "cái tôi" đó.
Giọng kể của Tản Đà rất phong phú, hóm hỉnh và có phần ngông nghênh, tự đắc.
Câu 3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực, đó là đoạn:
"Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
[...]
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều".
Tản Đà là một nhà thơ giàu cảm hứng lãng mạn. Thế nhưng trong đoạn thơ này, nhà thơ lại nói đến nhiệm vụ truyền bá "thiên lương" mà Trời trao cho ông như là một thiên chức vậy. Điều đó đã chứng tỏ, Tản Đà lãng mạn, nhưng không hoàn toàn thoát li cuộc đời, ông vẫn ý thức về trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc đời. Đó cũng là một cách khẳng định mình.
Xúc động nhất trong đoạn thơ có lẽ chính là những câu thơ vẽ lên một bức tranh chân thực về chính cuộc đời nhà thơ và cuộc đời của nhiều văn sĩ khác lúc đó. Đó là cuộc sống hết sức cơ cực, tủi hổ (không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đù ăn, bị o ép nhiều chiều....). Những câu thơ không hề cường điệu. Đó thậm chí chính là cuộc sống đầy xót xa của thi sĩ Tản Đà. Là một thi sĩ nổi tiếng tài hoa, thế nhưng gần như suốt đời, Tản Đà sống trong nghèo khổ, túng quẫn, ông đã từng rơi vào cảnh:
Hôm qua chửa có tiền nhà
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào
Đi ra rồi lại đi vào
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ
Về cuối đời, Tản Đà thậm chí phải mở cửa hàng xem tướng số để kiếm ăn nhưng không có khách, mở lớp dạy Hán văn và quốc văn nhưng không có học trò. Cuối cùng, ông chết trong cảnh nghèo đói, nhà cửa, đồ đạc bị chủ nợ tịch biên, chi còn một cái giường mọt, cái ghế ba chân, chồng sách nát và một be rượu.
Bức tranh hiện thực miêu tả trong bài thơ đã giúp chúng ta thêm hiểu vì sao Tản Đà thấy đời đáng chán (Trần thế nay em chán nửa rồi), vì sao ông phải tìm cõi tri âm tận trời cao (Tri kỉ trông lên đứng tận trời), phải tìm đến Hằng Nga, Ngọc Hoàng Thượng đế, chư tiên,... để thỏa niềm khao khát. Hai nguồn cảm hứng lãng mạn và hiện thực thường đan cài khăng khít trong thơ ông như thế.
Câu 4. Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật, với những dấu hiệu đổi mới theo hướng hiện đại.
- Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu kết cấu nào, nguồn cảm xúc được bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.
- Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm và rất gần với đời, không cách điệu, ước lệ.
- Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn được người đọc.
- Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng, tự do, không hề gò ép.
Những tìm tòi nghệ thuật trên đây là hướng đi đúng đắn của Tản Đà để tự khẳng định mình giữa lúc thơ phú nhà nho đang đi dần tới dấu chấm hết.
III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Ngông trong văn chương là phản ứng của những người nghệ sĩ tài hoa, có cá tính, không chịu trói mình trong một khuôn khổ chật hẹp hoặc là phản ứng của những người trí thức có nhân cách trước xã hội mà họ không thể chấp nhận hay không muốn chấp nhận nhập cuộc.