Bài soạn "Cảnh ngày xuân" số 5 - 6 Bài soạn "Cảnh ngày xuân" lớp 9 hay nhất
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM Đoạn thơ Cảnh ngày xuân là bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng được gợi lên qua từ ngữ, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyễn Du. Đây là đoạn tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của chị em Thuý Kiều. Ngày ...
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
Đoạn thơ Cảnh ngày xuân là bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng được gợi lên qua từ ngữ, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyễn Du.
Đây là đoạn tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của chị em Thuý Kiều.
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.Cỏ non xanh tận chân trời,Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.Thanh minh trong tiết tháng ba,Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.Gần xa nô nức yến anh,Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.Dập dìu tài tử, giai nhân,Ngựa xe như nước áo quần như nêm.Ngổn ngang gò đống kéo lên,Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.Tà tà bóng ngả về tây,Chị em thơ thẩn dan tay ra về.Bước dần theo ngọn tiểu khê,Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.Nao nao dòng nước uốn quanh,Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1 (Trang 86 SGK) Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân.
- Những chi tiết nào gợi lên đặc điểm riêng của mùa xuân? (Chú ý những đường nét, hình ảnh, màu sắc, khí trời, cảnh vật)- Em có nhận xét gì về cách dùng từ ngữ và bút pháp nghệ thuật của Nguyền Du khi gợi tả mùa xuân?
Bài làm:
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng:
Gợi tả không gian và thời gian:
Ngày xuân con én đưa thoi,Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Hình ảnh “ chim én đưa thoi” vừa gợi không gian ngày xuân, vừa ngầm ám chỉ thời gian mùa xuân trôi nhanh quá, mới đó mà đã hết sáu mươi ngày xuân rồi.
Mùa xuân có ba tháng, lúc này đã là tháng ba ( thiều quang….sáu mươi). Trong tháng cuối cùng của mùa xuân, những cánh én vẫn bay liệng giữa bầu trời cao rộng, trong sáng.
Hình ảnh thiên nhiên:
Cỏ non xanh tận chân trời,Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Tất cả hòa quyện, gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, tràn trề sức sống (cỏ non), khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời), nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm một vài bông hoa). Chữ “điểm” làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có tâm hồn, không tĩnh tại.
Nguyễn Du tả cảnh mùa xuân thật ngắn gọn chỉ bằng bốn câu thơ với một vài nét đặc tả, cảnh vật được chọn lọc. Ngôn ngừ binh dị, hàm súc; có sự tương phản về màu sắc, tạo được vẻ hài hòa, giàu sức gợi tả về bức tranh xuân. Nghệ thuật nhân hóa cùng với nghệ thuật đảo ngữ, đã diễn tả một cách sinh động sự tươi non, mơn mởn, giàu sức sống của cỏ cây hoa lá. Chúng vốn là những sự vật vô tri vô giác, nhưng trở nên có linh hồn, có sức sống…
Câu 2 (Trang 86 SGK) Tám câu thơ tiếp gợi lên khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.
Thống kê những từ ghép là tính từ, danh từ, động từ (Gần xa, yến anh, chị em, tài tử, nô nức, dập dìu,...). Những từ ấy gợi không khí và hoạt động của lễ hội như thế nào?
Thông qua buổi du xuân của chị em Thuý Kiều, tác giả khắc hoạ hình ảnh một lễ hội truyền thống xa xưa. Em hây đọc kĩ các chú thích, kết hợp với đoạn thơ để nêu những cảm nhận về lễ hội truyền thống ấy.
Bài làm:
Những câu thơ của Nguyễn Du gợi tả không khí lễ hội bằng cả một hệ thống từ ngữ giàu sức biểu đạt.
Từ ghép danh từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân;Gợi tả sự đông vui, nhiều người, tấp nập mà chủ yếu là trai thanh gái lịch.
Từ ghép động từ: sắm sửa, dập dìu;Gợi tả không khí rôn ràng, náo nhiệt của ngày hội.
Từ ghép tính từ: gần xa, nô nức.diễn tả tâm trạng náo nức, vui tươi, rộn ràng của những người đi hội.
Tám câu thơ tả cảnh lễ hội ngày Thanh minh mà khắc họa được cả truyền thống văn hóa lễ hội xưa: Phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh). Lễ tảo mộ có tính chất truyền thống mang nhiều ý nghĩa nhân văn. Hội đạp thanh là một lễ hội đẹp, đây còn là một dịp tốt cho những trai tài, gái sắc được gặp gỡ, hẹn hò.
Câu 3 (Trang 86 SGK) Sáu câu thơ cuối gợi lên cảnh chị em Kiều du xuân trở về.
Cảnh vật, không khí mùa xuân trong sáu câu thơ cuối có gì khác với bốn câu thơ đầu? Vì sao?
Những từ ngữ tà tà, thanh thanh, nao nao chỉ có tác dụng miêu tả sắc thái cảnh vật hay còn bộc lộ tâm trạng con người? Vì sao?
Cảm nhận của em về khung cảnh thiên nhiên và tâm trạng con người trong sáu câu thơ cuối.
Bài làm:
Cảnh vật, không khí lúc du xuân trở về có sự khác biệt lớn so với buổi sáng. Từ không khí nhộn nhịp nô nức của buổi sáng thì buổi chiều, mọi thứ thật nhẹ nhàng, chậm rãi: Mặt trời từ từ ngả về tây, cảnh chiều xuân đẹp một cách nhẹ nhàng, mọi vật đều thanh nhẹ, nắng chiều đã nhạt, người bước đi thơ thẩn khẽ khàng, cây cầu nhỏ bắc ngang khe nước… Cảnh vẫn đẹp, vẫn thanh nhưng đã nhuốm màu tâm trạng. Đó là tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến mà người ta vẫn thường có sau một cuộc vui.
Những từ láy “ tà tà”, “thanh thanh”, “ nao nao” không chỉ biểu đạt sắc thái của cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Những từ ấy, đặc biệt là từ “ nao nao” thoáng gợi lên một nét buồn khó hiểu, nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật.
Sáu câu thơ cuối gợi nhiều hơn tả. Trong không gian êm đềm, tĩnh lặng không còn nhộn nhịp, ríu rít tiếng nói, tiếng cười ấy là tâm trạng bâng khuâng, như có gì tiếc nuôi của chị em Thuý Kiều. Lòng người như hoà vào cảnh vật, lắng lại trong cảnh vật. Ngay sau đó, Kiều gặp mộ Đạm Tiên, rồi gặp chàng Kim Trọng “ Phong tư tài mạo tót vời – Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”, những sự kiện làm xáo trộn cuộc sống êm đềm, bình lặng của Kiều. Đoạn thơ tả cảnh mà dường như đang chứa đựng linh cảm về điều gì đó sắp xảy ra.
Câu 4 (Trang 86 SGK) Phân tích những thành công về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du trong đoạn trích Cảnh ngày xuân.(Gợi ý: Đoạn thơ có kết cấu hợp lí như thế nào? Cách sử dụng từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình. Sự kết hợp giữa bút pháp tả cụ thể, chi tiết và bút pháp gợi có tính chất điểm xuyết, chấm phá,...).
Bài làm:
Thành công của đoạn trích là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du. Tác giả đã sử dụng nhiều từ ngữ giàu chất tạo hình những từ láy gợi hình, tình tứ tả màu sắc, từ ghép… Các biện pháp tu từ như đảo ngữ, nhân hóa… Tác giả kết hợp tài tình bút pháp tả cụ thể, chi tiết và bút pháp gợi có tính chất chấm phá, điểm xuyết
Đoạn trích là ba bức tranh đặc sắc về cảnh ngày xuân.
Bức tranh đầu là cảnh thiên nhiên đặc trưng của mùa xuân. Với vài nét châm phá, mùa xuân hiện lên tươi đẹp, trong sáng.
Bức tranh tiếp theo là khung cảnh lễ hội Thanh minh nhộn nhịp, đông vui. Hình ảnh con người vui vẻ, chen nhau đi dự hội đạp thanh. Bằng hàng loạt tính từ, động từ, danh từ, kết hợp với nhịp đôi, tác giả đã tạo được không khí vui tươi của ngày hội.
Bức tranh cuối cùng là cảnh ngày hội tan, hai chị em Thuý Kiều tha thẩn ra về. Tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc của hai chị em dường như hoà trong không gian êm đềm, lắng đọng của buổi chiều tà ấy..
Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo. Tả cảnh mà gợi tình, gợi những tâm trạng của con người trước bức tranh thiên nhiên
Câu 1 – Luyện tập (Trang 86 SGK) Phân tích, so sánh cảnh mùa xuân trong câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa” (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lê có mấy bông hoa) với cảnh mùa xuân trong câu thơ: “Cỏ non xanh tận chân trời / Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” để thấy được sự tiếp thu và sáng tạo của Nguyễn Du.
Bài làm:
Từ hai câu thơ cổ năm chữ của Trung Quốc “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa ”, Nguyễn Du đã sáng tạo nên câu lục bát:
Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vùi bông hoa
Trong văn học trung đại, các tác giả thường sử dụng những điển tích điển cố hoặc hình ảnh ước lệ tương trưng để miêu tả thiên nhiên. Tuy nhiên trong câu thơ của Nguyễn Du không chỉ là sự mô phỏng, đó còn là sáng tạo nghệ thuật
Câu thơ cổ Trung Quốc chú ý đến hương thơm (cỏ thơm), không chú ý đến màu hoa. Chữ “điểm” chỉ lượng của hoa. Còn Nguyễn Du chú ý đến màu sắc (cỏ non xanh). Nguyễn Du làm bật cái màu trắng của hoa trên nền xanh của cỏ để tạo sự hài hoà. Chữ “điểm” được dùng như là động từ chỉ sự điểm tô, trang trí.
Thơ cổ Trung Quốc chú ý đến sự giao nhau, tiếp giáp giữa cỏ với trời. Còn Nguyễn Du chú ý đốn cái mênh mông của cỏ kéo dài đến tận chân trời.