Bài soạn "Cách làm văn lập luận chứng minh" số 6 - 6 Bài soạn "Cách làm văn lập luận chứng minh" lớp 7 hay nhất
I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG 1. Lập luận chứng minh Trong văn nghị luận, lập luận chứng minh là cách làm sáng tỏ vấn đề bằng các dẫn chứng hoặc lí lẽ đã được khẳng định trong thực tiễn. Khi lập luận chứng minh, ta có thể dùng dẫn chứng (sự việc, sự kiện, con số,...), dùng lí ...
I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Lập luận chứng minh
Trong văn nghị luận, lập luận chứng minh là cách làm sáng tỏ vấn đề bằng các dẫn chứng hoặc lí lẽ đã được khẳng định trong thực tiễn. Khi lập luận chứng minh, ta có thể dùng dẫn chứng (sự việc, sự kiện, con số,...), dùng lí lẽ hoặc dùng cả dẫn chứng và lí lẽ.
Chứng minh nhằm mục đích tác động đến người đọc để họ tin vào ý kiến mà mình đã đưa ra đúng, là phải.
2. Những điều lưu ý khi lập luận chứng minh
Khi lập luận chứng minh, cần phải lưu ý một số điểm sau :
- Xác định rõ vấn đề cần chứng minh.
- Biết tập trung chứng minh điểm nào, mặt nào người đọc chưa tin hoặc chưa tin hẳn. Những gì người đọc đã tin, đã biết thì có thể chỉ cần lướt qua, không cần chứng minh nữa.
- Các dẫn chứng hoặc lí lẽ đưa ra phải phù hợp với vấn đề đang bàn, phải đủ để thuyết phục niềm tin của người đọc.
- Trong các bài nghị luận, lập luận chứng minh thường được dùng kết hợp với lập luận giải thích và ngược lại, lập luận giải thích thường được dùng kết hợp với chứng minh. Khi người đọc chưa hiểu vấn đề nào đó, ta cần phải giải thích để giúp cho họ hiểu. Còn khi họ chưa tin điều ta đưa ra, ta cần phải chứng minh để họ tin vào điều ấy. Khi họ hiểu, họ mới tin và càng tin, họ sẽ lại càng hiểu vấn đề ta trình bày một cách sâu sắc hơn.
Vì thế có thể thấy giải thích và chứng minh thường đi song hành với nhau trong quá trình lập luận.
3. Muốn làm bài văn lập luận chứng minh, phải thực hiện bốn bước :
a) Tìm hiểu đề và tìm ý ;
b) Lập dàn bài ;
c) Viết bài ;
d) Đọc lại và sửa chữa.
4. Dàn bài bài văn lập luận chứng minh :
- Mở bài: Nêu luận điểm cần được chứng minh.
- Thân bài : Nêu lí lẽ và dẫn chứng để chứng tỏ luận điểm là đúng đắn.
- Kết bài : Nêu ý nghĩa luận điểm đã đửợc chứng minh. Chú ý lời văn phần Kết bài nên hô ứng với lời văn phần Mở bài.
5. Giữa các phần và các đoạn văn cần có phương tiện liên kết.
II - LUYỆN TẬP
Đề bài : Ca dao thực sự là tiếng hát về lao động và tiếng hát tâm tình của người dân lao động. Em hãy chứng minh điều đó.
1. Tìm hiểu đề và tìm ý
Đề yêu cầu chứng minh nhận định về một nội dung của ca dao. Nhận định đề cập hai ý lớn :
- Ca dao là tiếng hát của người lao động về lao động.
- Ca dao là tiếng hát tâm tình của người lao động.
2. Lập dàn bài
a) Mở bài : Nêu luận điểm cần chứng minh.
b) Thân bài :
- Chứng minh nội dung thứ nhất :
Ca dao là tiếng hát của người lao động về. lao động. Ca dao là tiếng hát của người lao động về công việc của mình : cày bừa, chăm bón, gặt hái ; những niềm vui, nỗi buồn trong công việc.
- Chứng minh nội dung thứ hai :
Ca dao là tiếng hát tâm tình của người lao động. Tiếng hát tâm tình, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, tình cảm bạn bè, tình cảm gia đình (với ông bà, bố mẹ, anh em, vợ chồng).
c) Kết bài : Ý nghĩa của vấn đề cần chứng minh.
3. Viết bài và sửa chữa
Bài làm tham khảo :
Ca dao thực sự là tiếng hát của người dân lao động. Tiếng hát trong ca dao Việt Nam phong phú vô cùng nhưng chủ yếu vẫn là tiếng hát lao động và tiếng hát tâm tình.
Qua ca dao, ta thấy được nỗi vất vả, nhọc nhằn của người lao động nông thôn :
Lao xao gà gáy rạng ngày
Vai vác cái cầy, tay dắt con trâu
Bước chân xuống cánh đồng sâu
Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cảỵ.
Ca dao vốn phát sinh từ công việc lao động, rồi lại phục vụ lao động, nên nó thực sự là tiếng hát của nhân dân lao động. Phải là người lao động thực sự mới có thể hiểu hết được nỗi vất vả của công việc đồng áng :
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Và từ nỗi vất vả, nhọc nhằn ấy, người dân lao động đã hiểu rõ mồ hôi công sức mà họ đổ xuống để có được hạt lúa vàng. Cho nên họ đã nhắc nhở :
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Câu ca dao giúp ta thêm kính trọng mồ hôi nước mắt của người làm ra hạt lúa, đồng thời lên tiếng phán xét nghiêm khắc đối với bản chất ăn bám, coi khinh lao động của bọn người "ngồi mát ăn bát vàng".
Qua đó ta thấy rằng tiếng hát ca dao không bao giờ là của hạng người "ăn trên ngồi trốc".
Nhân dân lao động xưa sống rất vất vả, đầu tắt mặt tối, một nắng hai sương, quanh năm "bán mặt cho đất, bán lưng cho giời", nhưng tâm hồn họ rất trong sáng và rộng mở, họ luôn lạc quan và tin tưởng vào cuộc sống chân chính của mình. Người lao động phải đổ "mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày" nên họ tin rằng:
Mồ hôi mà đổ xuống đồng
Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương.
hay :
Công lênh chẳng quản bao lâu
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Chính vì lạc quan tin tưởng trong lao động nên người dân lao động luôn hăng say với công việc của mình :
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?
Còn gì đẹp hơn bức tranh cô thiếu nữ tát nước dưới đêm trăng ? Tâm hồn trong sáng của cô hoà với ánh trăng, trăng tan vào nước như những giọt mồ hôi của cô thấm mát từng gốc lúa, củ khoai... Phải tinh tế vô cùng, người nghệ sĩ quần chúng mới thấy được vẻ đẹp hào phóng của công việc lao động cũng như tâm hồn người lao động.
Dù lao động vất vả, nhọc nhằn nhưng tâm hồn, tình cảm của người lao động rất phong phú, trong sáng, sâu sắc và chân tình. Tình cảm ấy được thể hiện rõ trong ca dao trữ tình.
Trước hết ta hãy nói đến tình yêu quê hương, đất nước của nhân dân ta. Đây là một tình cảm thiêng liêng, mặn mà, sâu sắc của người lao động đốì với đất nước.
Quê hương, đất nước Việt Nam gắn liền với con người Việt Nam. Chẳng biết từ bao giờ, thiên nhiên và cuộc sống con người đã hoà làm một:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
Không gian trời đất lắng trải giữa một buổi sáng êm đềm. Nhũng cành trúc la đà trước gió, một tiếng chuông hay một tiếng gà những tưởng như chìm sâu vào cảnh tĩnh mịch đó. Thế nhưng, trong "mịt mù khói tỏa ngàn sương" ấy, cuộc sống thực sự bắt đầu, sôi động và lan tỏa như mặt nước Hồ Tây.
Trên đường về quê Bác, câu hò xưa lại vẳng vào tâm trí chúng ta :
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.
Thể hiện tình yêu quê hương trong cảnh trí, ca dao Việt Nam còn ca ngợi những con người xây dựng và làm chủ quê hương ây. Tình cảm đồng bào trong ca dao Việt Nam rộng lớn vô cùng :
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng.
hay :
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Tình cảm của người dân Việt Nam mộc mạc như giàn bí, giàn bầu, nhưng lại thiêng liêng cao cả như "nhiễu điều phủ lấy giá gương". Tình cảm "nhớ" trơng ca dao Việt Nam gắn chặt với những gì rất cụ thể. Đây là tiếng lòng thổn thức của trái tim ai đó khi phải đi xa tổ ấm :
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Tình bè bạn của người lao động Việt Nam chỉ có thể sánh với vầng trăng tròn dịu hiền, với bầu trời cao mênh mông xanh thẫm :
Bạn về có nhớ ta chăng
Ta về nhớ bạn, như trăng nhớ trời.
Đứng trước tình cảm làm cha làm mẹ, những thi sĩ quần chúng đã gửi vào gan ruột chúng ta những vần điệu tha thiết :
Nuôi con cho được vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi xương mòn, gối cong
Con ơi cho trọn hiếu trung
Thảo ngay một dạ kẻo uổng công mẹ thầy.
Thật vô cùng cảm động trước sự mong ước đơn sơ, nhưng chính đáng và sâu sắc của những trái tim làm mẹ, làm cha.
Cuộc sống có thể hết sức vất vả, nhưng tình vợ chồng của người lao động vẫn keo sơn :
Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Tình yêu chân chính là cội nguồn của sự thuỷ chung không gì lay chuyển được :
Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
Tình cảm nam nữ trong tiếng hát của người lao động cũng là một tình cảm lành mạnh, trong sáng và dạt dào :
Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.
"Lửa mới nhen" nhất định sẽ bùng lên ngọn lửa, "trăng mới mọc" sẽ còn lên cao, sáng tỏ, "đèn mới khêu" thì nguồn sáng mới bắt đầu. Tất cả những tình cảm lành mạnh ấy đều được "nhắn nhe" từ buổi gặp gỡ ban đầu :
Đường xa thì thật là xa
Mượn mình làm mối cho ta một người
Một người mười chín đôi mươi
Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.
Nói chung tình cảm của người dân Việt Nam vốn phát sinh từ lao động nên rất tế nhị và chân tình.Cuộc sống của nhân dân Việt Nam gắn chặt với lao lao động sản xuất. Từ lao động, ca dao ra đời và phục vụ lại lao động. Do đó nó chính là tiếng hát thực sự của người lao động. Tâm hồn của người lao động Việt Nam trước nỗi vất vả, nhọc nhằn của cuộc sống là một tâm hồn trong sáng, rộng mở, tràn đầy niềm tin tưởng lạc quan. Ca dao ca ngợi lao động chính là ca ngợi con người lao động có tình cảm sâu sắc, tế nhị, phong phú và chân tình. Tha thiết yêu ca dao là tha thiết yêu con người lao động.
(Trần Thanh Thảo, Hà Nội)