Bài soạn "Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học" số 6 - 6 Bài soạn "Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học" lớp 7 hay nhất
A. Kiến thức trọng tâm I. Tìm hiểu cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học 1. Đọc bài văn CẢM NGHĨ VỀ MỘT BÀI CA DAO Đêm qua ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ... Cảnh minh họa trong bài học có bóng một người đội khăn, mặc áo dài, chấp tay sau lưng, quay mặt ...
A. Kiến thức trọng tâm
I. Tìm hiểu cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học
1. Đọc bài văn
CẢM NGHĨ VỀ MỘT BÀI CA DAO
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ...
Cảnh minh họa trong bài học có bóng một người đội khăn, mặc áo dài, chấp tay sau lưng, quay mặt trông trời lấp lánh sao, bên cái cầu rửa ở bờ ao tối mờ mờ. Có lúc tôi đã nghĩ đây là một người quen thật của tôi, có thể là họ hàng ruột thịt kiếm ăn ở một phương xa đang hướng về cố hương:
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?
Tôi chỉ lơ mơ nghe thầy giáo giảng các nghĩa, các ý và so sánh hình tượng. Tất cả tâm trí và mắt nhìn của tôi càng như dính chặt vào mạng tơ rung rung trước gió với một con nhện lơ lửng giữa khoảng không đang giơ giơ càng, vừa ra vẻ nghển trông, vừa ra vẻ vờn đón, ngạc nhiên và thất vọng. Tiếng gió khuya vu vu. Và chính bóng người chỉ huy đầu đội khăn, tay chắp sau lưng mà không thấy mặt kia, đang nấc lên mà gọi trời, gọi sao, gọi nhện
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn...
Thì ra cái vùng sao như cát, như thủy tinh vãi kia ở trong tranh minh họa là dải Ngân Hà? A! Sông Ngân! Sông Ngân! Thế là con sông điển tích mà tôi được biết bấy lâu, hằng năm cứ đến tháng bảy thì có một đôi vợ chồng tên là Ngưu Lang và Chức Nữ được quá giang gặp nhau, và chỉ có gặp nhau một ngày thôi ấy, lại chính là con sông có một người không có tên nhưng tôi lại thất quen quen và thân thương, đang ngước mắt lên trông ngắm mà nhớ thương, mà mong đợi. Mong đợi và nhớ thương không tả rõ là ai, là đâu, là gì mà sao vẫn thấy có một người, có một nơi, có một tình, có một cảnh, vừa man mác, vưa bâng khuâng, vừa da diết vô cùng:
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.
Lại con sông Tào Khê này nữa! Hơn bốn mươi năm sau đấy, tôi đã được tới đứng trên bờ phù sa của nó mà trông trời mây sông nước rồi cả sao khuya. Sông Tào Khê vắt qua huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc, thông ra sông Cầu, nhỏ hẹp thôi, nhưng cũng chảy xiết lòng người khiến những ai kia đã phải nghẹn ngào:
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn mà nói với sông:
- Ôi Tào Khê! Nước Tào Khê lắm đá mòn đấy! Nhưng dòng nước Tào Khê không bao giờ cạn chính là lòng chung thủy của ta!
Vì nhớ mà buồn, một bài không phải học kĩ mà cũng thuộc lòng ngay, cả nhiều bạn tôi xưa cũng thấy như thế.
(Nguyên Hồng, Một tuổi thơ văn)
Câu 2. Trả lời câu hỏi
a) Bài văn viết về bài ca dao nào? Hãy đọc liền mạch bài ca dao đó
b) Tác giả phát biểu cảm nghĩ của mình về bài ca dao bằng cách tưởng tượng, liên tưởng, hồi tưởng, suy ngẫm về các hình ảnh, chi tiết của nó. Hãy chỉ ra các yếu tố đó trong bài văn.
Trả lời
a) Bài văn viết về bài ca dao:
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao Mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà
Chuôi sao Tinh Đẩu ba năm đã tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.
b) Tác giả phát biểu cảm nghĩ của mình về bài ca dao bằng cách tưởng tượng, liên tưởng, hồi tưởng, suy ngẫm về các hình ảnh, chi tiết của nó.
Tưởng tượng, liên tưởng: Cảnh minh họa trong bài học...đang hướng về cố hương; Tất cả tâm trí và mắt nhìn của tôi...gọi sao, gọi nhện;
Hồi tưởng, suy ngẫm: Tôi chỉ lơ mơ nghe thấy thầy giáo giảng các nghĩa, các ý và so sánh hình tượng; Thì ra cái vùng sao như cát, như thủy tinh....vừa bâng khuâng, vừa da diết vô cùng; Lại còn con sông Tào Khê...cũng thấy như thế.
Ghi nhớ: sgk trang 147
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
II. Luyện tập
Bài tập 1: trang 148 sgk Ngữ Văn 7 tập một
Phát biểu cảm nghĩ về một trong các bài thơ: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh, Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê, Cảnh khuya
Bài làm:
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
Có người nói thơ Lí Bạch tràn ngập ánh trăng. Hình ảnh trăng trong thơ Lí Bạch hết sức đa dạng, ý nghĩa cũng vô cùng phong phú. Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh được gợi cảm hứng từ đêm ngắm trăng mà nhớ về quê hương của ông:
"Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương"
Dịch thơ:
"Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương"
Sự liên tưởng của tác giả khiến tôi nhớ tới câu ca dao trong dân gian khi miêu tả về cảnh đẹp của phủ Tây Hồ:
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
Làn sương khói mênh mông trên mặt hồ tĩnh lặng trong không khí của trời thu khiến cho phủ Tây Hồ mang một vẻ đẹp cổ kính và trang nghiêm. Tác giả dân gian tạo ra một không gian tĩnh lặng tưởng chừng như vạn vật đang đứng yên để rồi âm thanh của tiếng chày như một cách để đánh thức nét đẹp ấy. Còn trong thơ của Lí Bạch, không gian được mở ra với ánh trăng tràn ngập. Tôi hình dung về một đêm trăng sáng của những ngày rằm - khoảng thời gian mà trăng tròn, to, sáng và đẹp nhất. Lúc này trăng đã lên cao, ánh sáng từ bầu trời trong vắt đổ xuống thế gian khiến cho mặt đất được nhuộm một màu vàng mà trong con mắt của tác giả ánh sang vàng ấm áp, trong vắt ấy là màn sương đang phủ trên mặt đất. Có lẽ vì thế mà bao trùm lên toàn bộ không gian là thứ ánh sáng như mơ màng kì diệu của quá khứ, của tình yêu và nỗi nhớ:
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Trước kia, khi còn nhỏ ở quê nhà, Lí Bạch đã leo lên ngọn núi Nga Mi ở gần nhà để ngắm trăng, phóng tầm mắt của mình ra xa mà thu lại hình ảnh quê hương tươi đẹp vào trong tâm trí. Và sau này, khi lớn lên, ông xa quê và mãi mãi không bao giờ trở về. Chính vì thế, mỗi lẫn ngắm ánh trăng sáng thì lòng con người ấy lại nhớ về quê hương, về thiên nhiên và những kỉ niệm của thời thơ ấu. Ngẩng đầu để nhìn ảnh trăng như ánh sáng của quá khứ chiếu rọi vào sâu trong tâm hồn để gợi nhắc về những ngày tháng sống ở quê nhà. Trăng ở nơi nào mà không giống nhau? Nhưng với những người con xa quê, khi nỗi nhớ vẫn luôn dằn vặt, đau đáu trong lòng như Lí Bạch thì trăng ở nơi nào cũng không đẹp bằng ánh trăng ở quê nhà, và nhìn mọi thứ trong cuộc sống ở xung quanh, ông đều nhớ tới quê hương của mình. Có những nỗi nhớ thật khó để gọi thành tên mà chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim, bằng tâm hồn và những hồi ức.Và khi ấy, nỗi nhớ hòa cũng với dòng tâm trạng của con người, khiến cho nó càng trở nên sâu đậm, khó có thể phai mờ.
Đọc thơ của Lí Bạch, ta như được tắm mình trong ánh trăng. Trăng càng đẹp, nỗi nhớ quê nhà của con người ấy lại càng da diết, thấm thía. Đêm trăng thanh tĩnh dường như trở thành không gian để con người ấy có thể đối diện với tâm hồn và cảm xúc thật của chính mình.
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê
Quê hương luôn gợi lên những cảm xúc bất tận cho người thi sĩ. Sau hơn 50 năm xa quê, Hạ Tri Trương đã quay trở về quê nhà, nhưng những gì ông nhận được ngay ngày đầu tiên quay lại khiến con người ấy cảm thấy xót xa, buồn tủi mà viết nên bài Ngầu nhiên viết nhân buổi mới về quê (Hồi hương ngẫu thư):
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
Hương âm vô cải mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai?
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
Cùng viết về quê hương nhưng Tĩnh dạ tứ (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của Lí Bạch là nỗi nhớ về quê cũ của người con xa xứ thì Hồi hương ngẫu thư (Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê) của Hạ Tri Chương là cảm xúc của tác giả khi ông đã trở về quê sau một thời gian dài xa xứ. Ông bị xem như "khách" lại chơi chốn này chứ không phải là một người con trở về với quê hương của mình nữa. Cảm xúc khi ấy xuất hiện một cách ngẫu nhiên, nhưng đó là nỗi cay đắng, xót xa mà trào dâng ra ngòi bút của người nghệ sĩ.
Xa quê từ khi còn rất nhỏ, Hạ Tri Chương đã xây dựng cho mình công danh, sự nghiệp vang dội. Ông đỗ tiến sĩ và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An - chốn phồn hoa, đô thị hoàn toàn khác với quê hương nơi ông từng sống. Ông được vua Đường Huyền Tông, thái tử và quan lại trong triều nể trọng. Điều ấy đã chứng tỏ được giá trị, tài năng và nhân cách của con người ấy. Ông cũng đã tạo được công danh, ghi tên mình trong sử sách - chí nam nhi của người quân tử đã đạt được. Thế nhưng, dù thế nào thì con người cũng phải có quê hương, cũng phải quay trở về nơi chôn rau cắt rốn của mình, như một quy luật tất yếu của đời sống, giống như Khuất Nguyên đã viết:
Hồ tử tất như khau
Quyện điểu quy cựu lâm”
(Cáo chết tất quay đầu về núi gò
Chim mỏi tất bay về rừng cũ)
Hơn 50 năm lang bạt nơi quê người, ra đi khi còn trẻ, lúc trở về tóc đã hoa râm. Tuổi tác đã hiện hữu trên khuôn mặt, mái tóc, trên hình hài của con người ấy. Chỉ có duy nhất một thứ tác giả vẫn giữ đó chính là "giọng quê" - nét đặc trưng của vùng quê thân thuộc của ông. Người đọc dường như có thể cảm nhận được sự háo hức, mong chờ, bùi ngùi của người con xa quê đã quá lâu nay mới có dịp được trở về. Và ta cũng có thể hình dung theo lẽ thông thường, con người đã làm rạng danh quê hương ấy sẽ được chào đón trong sự hân hoan, vui mừng của người dân quê nhà, và chính ông cũng sẽ vui mừng, hạnh phúc nhưng có vẻ như đó không phải là cảm xúc của ông trong ngày đầu tiên về lại quê nhà, bởi:
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
Câu hỏi hồn nhiên của những đứa trẻ đã biến một con người thủy chung, ân nghĩa với quê hương thành "khách" - một kẻ hoàn toàn xa lạ với mảnh đất này. Quê hương đã thay đổi, bạn bè thân thiết có lẽ cũng không còn, chỉ có những đứa trẻ ngoan ngoãn, lễ phép và hiếu khách chào đón ông với câu hỏi khiến con người ấy lặng đi. Giọng điệu như hóm hỉnh, hài hước nhưng vẫn ẩn chứa nỗi đau đớn, xót xa khi đứng trên mảnh đất quê hương nhưng lại bị xem như một người khách hoàn toàn xa lạ.
Bài thơ đã thể hiện một cách chân thực mà sâu sắc, hóm hỉnh mà ngậm ngùi tình yêu quê hương thắm thiết của một người sống xa quê lâu ngày, trong khoảnh khắc vừa mới đặt chân trở về quê cũ.
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya
Hồ Chí Minh không chỉ được biết đến với tư cách là một nhà chính trị tài ba, một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, mà Bác còn được biết đến với tư cách là một người nghệ sĩ với tâm hồn phóng khoáng, yêu đời và tự do. Bài thơ Cảnh khuya ra đời năm 1947, khi Bác đang sống và làm việc tại chiến khu Việt Bắc trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với ngôn ngữ giản dị, trong sáng nhưng vẫn hiện lên tâm hồn, tình yêu thiên nhiên và sự trăn trở, suy tư của Bác với non sông, đất nước:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Cảnh hiện lên là buổi đêm vô cùng tĩnh lặng của núi rừng Việt Bắc. Tôi hình dung về khoảng không rộng lớn của thiên nhiên, khi trăng lên lên cao vút, ánh sáng chiếu xuyên qua từng kẽ lá, tạo nên những vệt sáng lốm đốm dưới mặt đất như những đóa hoa. Tiếng suối chảy róc rách chảy trong đêm lại đặc biệt trong trẻo, tinh khôi như tiếng hát. Âm thanh ấy lại gợi cho tôi về tiếng suối trong những vần thơ của Nguyễn Trãi trước đây:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Cả hai câu thơ đều là âm thanh tiếng suối nhưng tiếng suối trong mỗi bài hiện lên với vẻ đẹp khác nhau. Nếu tiếng suối trong thơ Nguyễn Trãi là tiếng suối ở Côn Sơn, rì rầm như tiếng đàn cầm du dương, thanh thoát thì tiếng suối trong thơ Bác là tiếng suối ở Việt Bắc trong trẻo, cao vút như tiếng hát của người ca sĩ. Dù thế nào thì những âm thanh tưởng như vô thức ấy cũng hiện lên trong những câu chữ của cả hai người nghệ sĩ với những cung bậc, tình cảm, cảm xúc tuyệt vời.
Người ta cứ nghĩ, thiên nhiên là cái mà Hồ Chí Minh hướng tới, nhưng không, con người suy tư về vận mệnh của đất nước mới chính là tâm điểm của bức tranh:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Nước nhà vẫn đang bị giày xéo dưới gót giày của kẻ xâm lược, nhân dân vẫn đang lầm than, è cổ chịu sự áp bức thì người lãnh tụ làm sao có thể ngon giấc được? Thiên nhiên có đẹp đến mấy, thơ mộng đến mấy, âm thanh có trong trẻo, có du dương đến mấy mà con người phải sống trong cảnh nô lệ, tù đày thì cũng không còn ý nghĩa gì cả. Hình bóng của người chiến sĩ cách mạng bỗng trở nên kì vĩ, lớn lao hơn bao giờ hết. Không phải vì bóng dáng của Người trong đêm tối tĩnh mịch được ánh trăng cắt hình trên nền đất mà chính vì suy nghĩ, trăn trở lớn lao của Người với vận mệnh của non sông, đất nước.
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng với suy tư về cuộc chiến nhưng lại mở ra trong lòng người đọc một tấm lòng của con người hết lòng vì dân, vì nước, đấu tranh vì quyền tự do, dân chủ cho con người.
...
Bài tập 2: trang 148 sgk Ngữ Văn 7 tập một
Lập dàn ý cho bài phát biểu cảm tưởng về bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê.
Bài làm:
Dàn ý:
Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và cảm nghĩ khái quát của bản thân về tác phẩm Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê.
Thân bài:
So sánh cảm hứng trong bài thơ Tĩnh dạ tứ (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của Lí Bạch với bài Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê (Hồi hương ngẫu thư) của Hạ Tri Trương
Tĩnh dạ tứ là cảm xúc của một người con xa quê nhớ về quê nhà khi nhìn ngắm ánh trăng trong đêm khuya thanh tĩnh
Hồi hương ngẫu thư là sự xót xa, cay đắng của người con khi đứng ngay trên mảnh đất của quê hương mình mà lại bị xem như một người "khách" - một kẻ hoàn toàn xa lạ.
Sự thay đổi của người con xa quê sau 50 năm dốc sức gây dựng sự nghiệp: thành tiến sĩ, làm quan và sống tại kinh đô Trường An, được vua, thái tử và quan lại trong triều yêu quý, kính trọng; mọi thứ thay đổi, chỉ duy nhất tấm lòng và giọng quê của ông là không thay đổi.
Câu hỏi hồn nhiên của đứa trẻ khiến cho con người ấy vừa buồn cười, vừa đau lòng: Tấm lòng thủy chung, ân nghĩa với quê hương lại bị phủ nhận bởi chính câu hỏi hồn nhiên kia khiến cho tác giả thấy hụt hẫng, buồn rầu.
Kết bài: Khẳng định lại cảm xúc của bản thân về bài thơ