29/01/2018, 21:18

Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Văn mẫu lớp 11

Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – ...

Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 4 Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 1 Hồ Biểu Chánh là một trong số những cây bút đặt nền móng quan trọng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Trước khi Tự Lực Văn Đoàn xuât hiện (1932), Hồ Biểu Chánh đã cho ra mắt bạn đọc hơn 20 cuốn tiểu thuyết và sau này là hơn 60 cuốn tiểu thuyết. Ông là một tác giả quen thuộc của người dân Nam Bộ. Tiểu thuyết của ông chẳng những đã phản ánh một phong cách phong phú và chân thật cuộc sống của nhân dân Nam bộ mà còn thể hiện đạo đức tốt đẹp của con người giữa cuộc đời. Tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng đã nêu bật tình cảm sâu sắc xúc động của nhân vật cha Sửu và nhân vật con Tí. Đoạn trích “Cha con nghĩa nặng” mà chúng ta được học được tác giả xoay quanh ba nhân vật chính, song hai nhân vật để lại dấu ấn nhất đó là nhân vật: Sửu và Tý. Tuy chỉ nằm trong đoạn trích ngắn, nhưng bằng lối viết tinh tế và sắc sảo của Hồ Biểu Chánh, nhưng số phận éo le của nhân vật sửu hiện lên khá đầy đủ. Có thể nhận thấy được trong đoạn trích Trần Văn Sửu trước sau như một là người nông dân thuần phát, thương vợ, thương con, chăm chỉ hiền lành. Vô tình làm chết vợ, Sửu phải trốn tránh, sống chui lủi, đến tên tuổi của mình cũng phải tìm mọi cách để xóa sạch vì sợ pháp luật săn đuổi, chừng trị. Trên mười năm trời, Trần Văn Sửu phải chịu đau khổ về cả thể xác và tâm hồn, chịu cảnh cắn dứt dằn vặt lương tâm. Điều này đã được tác gải tái hiện qua lời nói của nhân vật khi gặp lại bố vợ và đứa con trai yêu quý của mình. “Con thương vợ con lắm. Tại nó làm quá, con giận xô nó té, nó chết chớ không phải con giết nó. Xin tía thương thân con”. Đúng vậy, người đọc có thể thấy nhân vật vợ Sửu hiện lên là một người lăng loàn, trực tiếp gây nên cuộc sống bất hạnh cho Sửu, và các con. Vợ Sửu như thế, nhưng Sửu lại không than trách, mà vẫn thương xót người đã chết để rồi cắn dứt lương tâm của mình vì đã vô tình giết vợ. Khi Sửu nói chuyện với con trai, Tí có ý trách mẹ, Sửu liền đứng ra phân trần cho người con hiểu “Má quấy là quấy với cha, chớ không phải con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, mà con vãn nhớ làm chi?” nói ra điều này, Trần Văn Sửu muốn Tí khỏi trách người mẹ và đã khẳng định sở dĩ cuộc đời mình éo le, cực khổ là do “số mạng” chứ không phải do lỗi tại vợ. Trong cuộc sống không đáng sông nhưng Sửu vẫn sông vì thương con, và nhận do mình chứ không phải do vợ. Qua đây có thể thấy được nhân vật Trần Văn Sửu được tác giả hiện lên là một người lương thiện, hiền lành, chất phác, thương vợ, thương con. Không chỉ thế Trần Văn Sửu ông còn là một người có tấm lòng đôn hậu, vị tha, có tấm lọng rộng lượng. Tình thương của Trần Văn Sửu không phải là nội dung cốt lõi của đoạn trich, nhưng nó góp phần vào việc xây dựng nội tâm nhân vật khá nhất quán của tác giả. Như chúng ta đã nói ở trên, đoạn trích để lại cho người đọc hai nhân vật có dấu ấn nhất đó là Sửu và Tí. Tí được hiện lên qua tình yêu thương, nỗi nhớ con của Trần Văn Sửu. Điều này được thể hiện khá thành công bằng việc xây dựng tình huống giàu kịch tính. Đó là việc ông Sửu đã tìm về làng, tìm lại đứa con sau bao năm tháng xa cách, nhớ nhung để giãy bày nỗi lòng mình. Mặc kệ những ánh nhìn, những sự soi mói của họ hàng, người thân, nhưng lòng thương con ông vẫn kiên quyết “xăm xăm bước đi về cửa”, cũng chính vì lòng yêu thương con vô bờ bến đã biến ông thanh một người yếu mền chân thực : khóc dòng dòng và đã không kiềm chế được cảm xúc của bản thân: “chết không được vì thương sắp nhỏ quá”; “Con thương sắp nhỏ quá”; “Con nhớ sắp nhỏ quá”…Ông cũng đã thức tình được lòng tốt của Hương Thị Tào và Hương Thị Tào cho ông biết lũ nhỏ vẫn còn thương ông lắm, khi nghe vậy, Trần Văn Sửu chỉ muốn được thấy mặt chúng dù phải giấu mình dưới dạng thổ dân. Nếu như ở đoạn một, tác giả khắc họa tình cảm của cha đối với con, thì ở đoạn hai này lại là tình cảm của người con đối với người cha. Cuộc đối thoại lúc trở về dưới ánh trăng của Trần Văn Sửu và bố vợ bị thằng Tí nghe thấy hết vì nó rình ở cửa. Chính chi tiết này cũng tạo nên cao trào, vì thương con mà sống, nhớ con mà về, nhưng lại vì con mà không nỡ gặp, dứt áo ra đi vì sợ tiếng tai của mình liên lụy đến con, tiền đồ của con lại ra đi trong đau khổ thương nhớ, nhưng khi ra đi Tí lại giữ ông lại, và rồi khi biết con mình sắp giàu ông lại thấy mình như cản trở nó và chỉ muốn nhảy xuống sông tự tử. Tình cha con làm người đọc khong khỏi xúc động “Cha con ôm nhau mà khóc” khi Tí đuổi theo ông Sửu. Cuộc hội thoại của hai cha con càng thể hiện lên tình cha con nghĩa nặng. Nếu người cha quay về Tí sẽ bị ảnh hưởng bởi tiếng tai của người cha nhưng bất chấp hi sinh sự giàu sang để cùng sống với bố của mình, thái độ kiến quyết, chân thành của Tí làm cho người đọc không khỏi rung động. Đây cũng chính là “nghĩa nặng” của tình cha con trong đoạn trích. Như vậy, qua đoạn trích ta có thể thấy được Hồ Biểu Chánh đã khắc họa lên tình cảm cha con đầy kịch tính, từ đó thấy được những tình cảm thiêng liêng nghĩa nặng của tình máu mủ. Đoạn trích bên cạnh nghệ thuật miêu tả dựng cảnh khác, hấp dẫn phải nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả. Cha con nghĩa nặng mang dấu ấn của thời kỳ đầu văn chương đổi mới theo xu hướng hiện đại. Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 2 Trước khi Tự lực văn đoàn xuất hiện (1932), Hồ Biểu Chánh đã cho ra mắt bạn đọc ngót 20 cuốn tiểu thuyết; ông được khẳng định là một trong số ít những cây bút quan trọng đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hồi đầu thế kỉ, có thời gian ảnh hưởng khá lớn ở Nam Bộ. Tuy còn những mặt hạn chế, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã thể hiện tương đối chân thực cuộc sống và con người Nam Bộ với những sắc thái địa phương độc đáo. Thông qua số phận của nhiều nhân vật, tác giả bộc lộ một quan niệm nhân đạo đáng quý. Nhà văn cảm thông với bao kiếp người bị đày đau khổ, lên án cái sấu xa tàn ác, ngợi ca đạo lí làm người… Tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng ra đời năm 1929. Dưới đây là tóm tắt sơ lược nội dung tác phẩm: Trần Văn Sửu và thì Lựu lấy nhau sinh được ba đứa con: thằng Tí, con Quyên và thằng Sung. Sửu là một nông dân chất phát, cần cù, thật thà, trái lại thị Lựu có tính đĩ thỏa, lăng loàn. Thì tư tình với Hương hào Hội, nhưng khi chồng hỏi đến, thị thường tìm cách chối cãi, lấp liếm đi. Làng xóm ai cũng biết, riêng Sửu vẫn thực thà tin vợ. Một đêm, Sửu nằm giữ lúa ngoài ruộng, bị đau bụng liền chạy về nhà tính lấy dầu uống, bắt quả tang vợ thông dâm với Hương hào Hội. Sửu toan bắt gian phu nhưng thị Lựu níu áo chồng cho hắn chạy thoát, lại còn giở giọng mắng chửa chồng. Quá giận, Sửu đạp vợ ngã, không may đập đầu phải thành ván chết ngay. Vừa hối hận, vừa sợ tội, Sửu liền bỏ trốn. Sau đó người ta tìm thấy trên bờ sông một cái áo trong có giấy thế thân của Sửu, rồi lại vớt được một cái xác mặt đã bị cá ăn hết. Ai cũng cho rằng Sửu đã tự tử chết. Ba đứa con của Sửu được ông Ngoại là Hương Thị Tào đem nuôi, rồi đứa nhỏ mắc bệnh chết. Thằng Tí thương ông nghèo cực, vất vả, xin ông cho đi giữa trâu cho bà Hương quản Tôn để lấy tiền công nương em. Bà Hương quản Tôn là người nhân đức, thấy thằng Tí thật thà, siêng năng, biết thương ông, thương em, lại thấy con Quyên cũng ngoan ngoãn, dễ thương nên mướn cả hai anh em nó để đỡ việc nhà. Dần dần bà yêu quý con Quyên như con đẻ. Còn thằng Tí đi ở mướn năm 20 tuổi thì xin về làm ruộng và phụng dưỡng ông ngoại già yếu. Thấy nó chăm chỉ, biết làm ăn, lại được Hương quản đỡ đầu, trong làng nhiều người muốn gả con cái cho nó. Bà Hương quản Tôn có một con trai là Ba Giai ham chơi bời, bỏ nhà đi đã lâu, sau ăn năn xin trở về, nhưng bà còn giận, không đồng ý. Cậu gởi thư xin lỗi mẹ, đồng thời tỏ ý oán trách mẹ đã nghe lời người dưng xúc xiển hòng tranh đoạt gia tài bà Hương quản càng giận và quyết bỏ cậu. Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 3 Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm…, chẳng biết câu thơ của nhà văn Nam bộ Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng trực tiếp tới quan điểm sáng tác của Hồ Biểu Chánh hay không? Nhưng xét về một mặt nào đó, có thế nói con thuyền văn chương của nhà thơ trung đại và nhà văn hiện đại này đều mang nặng một thứ hàng vốn vô tận và vô giá: đạo lí. Tôi muốn nói cảm hứng bao trùm lên sự nghiệp thơ văn của hai tác giả này là cảm hứng đạo lí. Bốn năm trước khi Đồ Chiểu mất, Hồ Biểu Chánh đã ra đời. Phải chăng con đường văn chương đạo lí của nhà văn họ Hồ chính là một sự kê tục nào đó của tinh thần đạo lí của bậc tiền bối kia? Với một sự nghiệp văn chương đồ sộ – 60 cuốn tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh xứng đáng là một tiểu thuyết gia đã góp phần xây dựng nên từ buổi sơ khai của thế kỉ XX cái nền móng vững chắc cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Một thế kỉ đã đi qua, trong văn chương Hồ Biểu Chánh, dĩ nhiên có những phần, những khía cạnh không chịu được thử thách của thời gian. Song, có những giá trị đã vượt qua tình trạng sơ khai vẫn có thổ cảm động người đọc cuối thế kỉ này và hẳn nó chưa chịu dừng lại ở đấy bởi vì đạo lí làm người một khi đã thành tâm huyết lớn của cả một đời văn, đã hóa thân thành những hình tượng có sức sống lớn thì nó sẽ đem lại cho văn chương khả năng trường tồn. ở một phạm vi hẹp hơn, chừng nào văn còn có khả năng cảm động lòng người, chừng ấy nó không cũ. Đọc đoạn trích của Cha con nghĩa nặng, người đọc đã có được ở đây một sự cảm động như thế. Đúng là văn xuôi đã tự làm giàu cho mình bằng vay mượn, tận dụng, kế thừa ưu thế của các thể loại khác, cho nên chúng ta thấy có loại văn xuôi giàu chất thơ, có loại đậm chất sử thi, có loại đầy kịch tính, có loại lại khoác thêm lí luận, triết học nữa… Đọc những tác phẩm như thế, người đọc có thể làm giàu cho thị hiếu của chính mình. Cha con nghĩa nặng là một câu chuyện đầy kịch tính mà người ta có thể dễ dàng chuyển thể thành một tác phẩm sân khấu. Toàn bộ câu chuyện là một chuỗi kế tiếp những sự kiện có tính chất xung đột, mâu thuẫn. Gia đình Trần Văn Sửu đang êm đềm bỗng nhiên tan nát. Đầu mối là việc ngoại tình của cô vợ lăng loàn, đàng điếm. Chồng phản ứng thì vợ không biết điều, lại còn thái độ hỗn hào, láo xược. Tức quá không kiềm chế được, Sử đã xô vợ. Thật không may, vợ ngã và chết. Vô tình, Sửu thành kẻ giết vợ. Sửu bỗng nhiên thành kẻ phạm pháp và vô đạo lí. Pháp lí thì có thể trốn khỏi sự truy nã, nhưng đạo lí thì không trôn khỏi tình phụ tử. Muôn được yên thân anh phải sống lẫn tránh. Nhưng muốn sống đúng đạo lí của người làm cha, anh phải trở về. Lẩn trốn cá đời thì lỗi đạo cha. Còn trở về thì có thể đầy nguy hiểm đến tính mệnh. Ấy là mâu thuẫn giằng xé trong anh ở phần trước, còn đến đây thì đã qua. Anh trở về, nghĩa là phụ tử đã chiến thắng ý thức bảo mạng. Tình phụ tử đã khiến anh mạo hiểm trở về. Như vậy, cuộc đấu tranh bên trong anh là sự giằng xé quyết liệt giữa đạo lí và phản đạo lí, giữa nhân đạo và phi nhân đạo! Mỗi lần anh vượt lên được những tiếng nói ngáng trở, là một lần đạo lí chiến thắng. Nhưng giờ đây, anh đang đối mặt với tình huống gay go mới, đang bước vào một mâu thuẫn xung đột mới. Mấy năm nay Sửu đi biệt tích. Cả xóm và gia đình đều yên chí rằng Sửu đã chết. Trong thời gian đó, hai đứa con của Sửu được sự chăm sóc của ông ngoại, đã lớn lên và khá giả hơn. Hiện thời, đứa con gái sắp lấy chồng, đứa con trai cũng mai mối để cưới vợ. Nếu Sửu xuất hiện, mọi chuyện vỡ lở chắc đổ bể hết. Đoạn trích nếu được ví như một màn kịch, thì màn kịch được dàn thành hai lớp kịch chính, vừa kế tiếp vừa có phần chồng chéo lên nhau: cảnh Trần Văn Sửu gặp bố vợ và Hương thị Tào và cảnh Trần Văn Sửu gặp con trai là thằng Tí. Mỗi cảnh là một mâu thuẫn nhỏ, cả hai cảnh nằm trong một xung đột lớn. Ở đâu cũng thấy toát lên cái đạo lí làm người, phụ tử tình thâm Cha con nghĩa nặng. Phải nói ngay rằng xung đột kịch ở đây là thuộc về hoàn cảnh chứ không phải về tính cách. Các nhân vật tham gia vào màn kịch này đều là những con người của đạo lí: một người chí nghĩa, người cha chí tình và một đứa con chí hiếu. Họ đấu tranh với nhau không phải chiến đấu với những tương phản trong tính cách cá nhân, mà xét đến cùng thì cá nhân ấy đang đâu tranh với sự nghiệt ngã của hoàn cảnh, của tình huống. Trong quan hộ với Trần Văn Sửu, Hương thị Tào là bố vợ. Dù rằng con rể đã vô tình giết chết con gái của mình, nhưng ông bô không phải là kẻ rối trí họp tâm khiến thù hận Trần Văn Sửu. Ông vẫn dành cho Sửu sự cảm thông, thương xót. Có lúc lòng ông có gợn lên thoáng hận nào đó, ấy là khi ông mắng chửi một câu: “Mầy thiệt là khốn nạn lắm!”. Nghĩ cho cùng đó là cái phản ứng dễ có ở một người cha bị mất con gái. Song, nó cũng chỉ thoáng qua. Chi tiết ấy cho thấy Hồ Biểu Chánh hiểu lòng người chứ không chạv theo nhu cầu lí tưởng hóa một chiều để hoàn toàn đơn giản hóa tình cảm vốn phức tạp của con người. Tràn ngập lòng Hương thị Tào vẫn là sự cảm thông. Ông đã sẵn sàng tha thứ, và tha thứ tự lúc nào rồi: “Thôi, chuyện cũ bỏ di!”. Và trước tấm tình đau đớn của con rể, ông đã không cầm lòng được: “Hương thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì dộng lòng quá, chịu không nổi, nén ông củng khóc". Tình huống đặt ra với Hương thị Tào thì có nôn hay không nên đáp ứng nguyện vọng tha thiết của con rể – muôn gặp lại hai con của mình trong chốc lát. Có lẽ không phải là xung đột giữa một bên là sở nguyện của con rể, một bôn là hạnh phúc của hai cháu ngoại mà thực ra là xung đột giữa tình thương lớn và tình thương nhỏ. Sự giằng xé của những tình cảm ấy khiến ông đau khổ. Ông đuổi Sửu đi không phải vì ghét bỏ Sửu mà vì thương, vì sợ Sửu xuất đầu lộ diộn sẽ nguy hiểm tới tính mạng và làm hỏng việc đại sự trăm năm của con Sửu. Cuối cùng tình thương lớn đã thắng. Cái việc đuổi Sửu đi ngay có vẻ như tàn nhẫn nhưng không phải. Nói đúng hơn là tàn nhẫn bề ngoài, vì cực chẳng đã, cồn bên trong là tình cám sâu sắc gắn VỚI một tầm nhìn xa của một người cha. Ong giục Sửu đi sau khi đã nói rò điều hơn lẽ thiệt cho con rể. Và đến đây xung đột của canh thứ nhất đã được giải tỏa. Sửu đã nén đau khố để ra đi. Nhưng trong lòng anh đang dâng lên niềm hạnh phúc. Sửu ra đi không gặp lại con chính là chấp nhận hi sinh: hi sinh hạnh phúc nhỏ của mình (gặp các con) vì hạnh phuc lớn của con cái (để chúng được yôn ổn với những cuộc hôn nhân đang hứa hẹn). Cảnh thứ nhất khép lại với hành vi đầy cảm kích của Sửu trước sự cảm thông và lòng độ lượng cua nhạc phụ: “Trần Văn Sửu chấp tay xá cha rồi dội nón lên và bươn bả ra lộ”. Nêu dừng lại ở đó không thôi thì Cha con nghĩa nặng mới chỉ hiện ra một phía, ấy là cha vợ và con rề. Đấy chưa phải là phần trọng tâm của tình phụ tử mà Cha con nghĩa nặng muôn nói đôn. Sau khi Trần Văn Sửu vừa đi khỏi, thằng Tí ở trong nhà dò cửa chui ra. Điều này, càng thấy rõ tính chất chuyển cảnh của sân khấu. Và cảnh thứ hai mở ra. Trước, Trần Văn Sửu chỉ muôn sông đê gặp các con, giờ anh ta chỉ muôn chết để cho chúng được bình yên. Nếu như ở cảnh trước chỉ nghiêng về đôi thoại, thì đến đây sân khấu mở rộng hơn, hành động của nhân vật phong phú hơn. Thằng Tí cố đuối theo để gặp cha; cha nó lại ngỡ là người làng đuôi bắt, nên con chạy càng gấp cha chạy càng nhanh: tình tiết cười ra nước mắt. Có lẽ ai cũng thây điều này: tình cảm của các nhân vật ở đây thật phân minh Bố vợ đã không vì mất con gái mà oán thù con rể, con không vì cha làm mẹ chết mà oán hận cha. Rồi đến chồng không vì người vợ lăng loàn mà khiến con cái phải khinh khi, hận thù mẹ. Người đọc cảm động trước sự phân minh, rành rẽ ấy. Hãy nghe Trần Văn Sửu nói với con: “Con không nên phiền trách má con. Má con có quấy là quấy với cha, chứ không quấy với con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, sao con còn nhỞ làm chi?”. Tuy nhiên, mâu thuẫn cơ bản ở cảnh thứ hai này chưa phải ở những điều đó. Thằng Tí muốn cha nó quay lại, muốn được sống cùng cha, muốn phụng dưỡng cha. Ấy thế mà lòng hiếu nghĩa. Nhưng nếu là được như thế thì người cha sợ người làng bắt, tính mạng của cha sẽ nguy và hạnh phúc của nó chắc chắn sẽ bị đe doạ. Vì vậy mâu thuẫn ở đó là mâu thuẫn giữa tình thương cha và hạnh phúc của mình. Sâu xa hơn là mâu thuẫn giữa lòng vị tha và lòng vị kỉ. Thằng Tí sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình đế’ chăm sóc và che chỞ cha nó. về phía Trần Văn Sửu cũng sa vào một mâu thuẫn. Nếu Sửu bỏ đi biệt thì coi như từ nay mất hẳn hai con, nhưng các con lại được hạnh phúc. Và người cha cũng quyết chọn con đường hi sinh cái nhu cầu nhỏ của mình để làm tròn cái bổn phận lớn của người cha. Sự lựa chọn đầy tính vị tha của hai cha con dẫn đến mâu thuẫn giữa hai cha con: cha thì nhất quyết ra đi, con thì nhất quyết khồng rời cha. Cha nghe theo đứa con không phải vì nghĩ dấn hạnh phúc của mình. Ngược lại nghe theo con chẳng qua là đành lòng nhượng bộ con, nghía là cũng vì con thôi!… Cuối cùng tình thương cao cả đã chiến thắng. Kịch phản ánh cuộc đời thông qua các xung đột mâu thuẫn. Cha con nghĩa nặng không phai là tác phẩm kịch, nhưng là một tác phẩm văn xuôi giàu yếu tố kịch. Kịch tính ở đây là vẻ đẹp độc đáo của thiên truyện này. Câu chuyện dựng nên một cảnh ngộ thương tâm của con người trong cuộc đời. Người ta thấy đạo lí làm người là bất diệt. Dù con người vẫn cứ kiêu hãnh làm người. Với tư tướng ấy có thê xem Cha con nghĩa nặng là một khúc khải hoàn ca của đạo lí đã vang lên từ đầu thế kỉ. Và có lẽ nó còn vang vọng mãi. Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 4 Văn chương từ xưa đến nay ngợi ca rất nhiều về tình mẫu tử mà rất ít những tác phẩm viết về tình phụ tử. Với những trang viết vô cùng cảm động, nhà tiêu thuyết Hồ Biểu Chánh đã phần nào bổ khuyết vào khoảng trống đó của văn học. Cha con nghĩa nặng đã diễn tả thành công tình nghĩa cha con, một trong những tình cảm thiêng liêng cao quí nhất của con người. Hồ Biểu Chánh có một vị trí đặc biệt trong nền văn xuôi quốc ngữ Việt Nam trong những năm đầu thể kỉ XX. Nếu ở Bắc Bộ Hoàng Ngọc Phách nổi tiếng với tiểu thuyết Tô Tám thì ở Nam Bộ Hồ Biểu Chánh được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt bởi sức sáng tạo dồi dào, phong phú với hàng loạt những tiểu thuyết có khuynh hướng tư tưởng trong sáng, tốt đẹp (đề cao cái thiện, cổ vũ cho sự cao quý của đạo lí hình dân truyền thống: quý trọng sự thủy chung, lòng bao dung, ca ngợi sự trung thực, thằng ngay, dám hi sinh vì tín nghĩa,…). Phải đặt mình vào tác phẩm của Hồ Biểu Chánh như Cha con nghĩa nặng vào nền văn xuôi nước nhà hồi đầu thế kỉ mới có thể cảm nhận một cách đầy đủ những phẩm chất nghệ thuật của một ngòi bút tiểu thuyết giản dị, mộc mạc trong cách kể chuyện,ít gây-bất ngờ đột ngột nhưng khá cuốn hút. Hệ thống ngôn ngữ từ vựng cũng như các tình tiết về không gian, thời gian và nhân vật gần với đời thường, rất quen thuộc với người dân Nam Bộ. Chủ đề của đoạn trích cũng như chủ đề của tác phẩm đã được nhà văn thể hiện rất rõ qua nhan đề: Cha con nghĩa nặng Tình cha con cao quý thiêng liêng đã được nhà văn thể hiện hết sức xúc động không kém những tác phẩm hay viết về tình mẫu tử. Trần Văn Sửu là một người nông dân hiền lành, chất phác, một người chồng thương vợ, một người cha yêu con. Thị Lựu, vợ Sửu là một người đàn bà lăng loàn, đàng điếm. Sửu bắt-quả tang vợ ngoại tình. Vợ Sửu không biết hối lỗi, còn hỗn láo. Tức giận, Sửu xô vợ ngă. Không may Thị Lựu chết, Sửu phải bỏ trốn. Mọi người tưởng anh nhảy xuống sông tự tử. Sau mười một năm trốn tránh, Sửu lên về thăm con. Gặp bố vợ, Sửu biết con mình đã có cuộc sống yên ổn. Tuy rất muốn gặp con nhưng sợ chúng liên lụy, Sửu quyết định đi biệt tích. Nhưng thằng Tí, con trai Sửu biết bố về đã chạy đuổi theo. Cha con gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Tinh cha con được tác giả đặt trong một tình huống nghệ thuật giàu kịch tính. Mâu thuẫn giữa tình cha thương con và hạnh phúc của con, giữa hạnh phúc của con và tình con thương cha đã bật lên lời ngợi ca: "cha con nghĩa nặng". Cuộc chạy đuổi của hai cha con thật căng thắng. Người con vì muốn đuổi kịp cha nên đã chạy thật nhanh. Người cha một mặt vì tưởng có người đuổi bắt, mặt khác không muốn vì mình để liên lụy đến con nên càng chạy nhanh hơn. Người cha chạy vì muốn để lại phía sau sự bình yên cho các con. Người con chạy vì muốn tới kịp phía trước để giữ cha lại, lo cho tuổi già của cha. Hai-người chạy một cách vội vã, gấp gáp và họ đã gặp nhau trong tình thương yêu giành cho người mà họ yêu thương nhất. Khi người cha định tự tử thì đứa con cũng vừa lao tới. Chi tiết này thể hiện kịch tĩnh ở độ căng thẳng nhất. Người con chí chậm một chút thôi là vĩnh viễn mất cha. Người cha chi nhanh thêm chút thôi là không bao giờ còn có cơ hội gặp lại con. Tiếng gọi của đứa con yêu dấu đã kéo người cha khói bàn tay của tử thần. Giây phút cha con gặp nhau thật vô cùng cảm động: "Trần Văn Sửu giật mình, tháo dầu trở vô, rồi dậy mà ngó. Thằng Tí chạy riết lợi nắm tay cha nó, dòm sát vào mặt mà nhìn, rồi ôm cổ cha mà nói: "cha ơi , cha chạy đi đâu vậy ". Lúc ấy, Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực, máu trong tìm cháy thình thịch, nưỏc trong con mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết. Cha con ôm nhau mà khóc một hồi rồi mới buông ra”. Đặt tình cha con vào ranh giới của sự sống và cái chết, sự gặp gỡ và chia li vĩnh viễn, tác.giả đã khiến người đọc vô cùng hồi hộp và cũng vô cùng hạnh phúc để rồi từ đó nhận ra tình cha con là thứ tình cảm thiêng liêng và cao quý. Cuộc trò chuyện cảm động giữa hai cha con một mặt thể hiện tấm lòng thương yêu con của anh Sửu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu cha của thẳng Tí. Người cha vì hạnh phúc cùa con mà nhất quyết hi sinh cuộc sống riêng, muốn vĩnh viễn xạ con. Người con vì thương cha, lo cho tuổi già và sự an nguy của cha mà chạy theo tìm cha bằng được để mời cha trở về. Khi cha nhất định đi, Tí đã quyết theo cha vì "đi theo đặng làm mà nuôi cha, chìmg nào cha chết rồi con vể". Cuộc đối thoại giằng co đầy mâu thuẫn và xục động, tô đậm mối quan hệ máu mú ruột rà đáng quý: cha quên mình chỉ nghĩ đến tương lai hạnh phúc cùa con. Ngược lại. con hoàn toàn chỉ nghĩ đến cuộc sống an vui thanh thản lúc tuổi già cùa cha. Quả thật đây là một bài ca cảm động về tình nghĩa cha con: cha hiền, con hiếu. Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh đã được viết cách đây bảy thập kỉ. Từ ngữ, câu văn có thể cũ nhưng tình nghĩa cha con mà ông ngợi ca trong những trang viết của mình luôn luôn lấp lánh vẻ đẹp mà con người thời đại nào cũng thấy cần thiết. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Văn mẫu lớp 11Đánh giá bài viết Từ khóa tìm kiếmxác định hạn chế và ưu điểm trong cách viết của hồ biểu chánh trong bài cha con nghĩa nặngcha con nghĩa nặng cảnh gặp nhau của 2 cha conHãy phân tích bài cha con nghĩ nặng của hồ biểu chánhndwww nb tac pham cha con nghia nanhqua tác phẩm cha con nghĩa nặng rút ra cảm nhận và bình luận ngữ văn 11so sánh sắc thái nam bộ của cha con nghĩa nặng với lục vân tiên của nguyễn đình chiểu Có thể bạn quan tâm?Phân tích tác phẩm Chí Phèo – Văn mẫu lớp 11Nghị luận về truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Tình yêu và thù hận (Uy-li-am Sếch-xpia) – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) – Văn mẫu lớp 11Phân tích bài Khóc Dương Khuê – Nguyễn Khuyến – Văn mẫu lớp 11Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) – Văn mẫu lớp 11Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương – Trần Tế Xương – Văn mẫu lớp 11

Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 1

Hồ Biểu Chánh là một trong số những cây bút đặt nền móng quan trọng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Trước khi Tự Lực Văn Đoàn xuât hiện (1932), Hồ Biểu Chánh đã cho ra mắt bạn đọc hơn 20 cuốn tiểu thuyết và sau này là hơn 60 cuốn tiểu thuyết. Ông là một tác giả quen thuộc của người dân Nam Bộ. Tiểu thuyết của ông chẳng những đã phản ánh một phong cách phong phú và chân thật cuộc sống của nhân dân Nam bộ mà còn thể hiện đạo đức tốt đẹp của con người giữa cuộc đời. Tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng đã nêu bật tình cảm sâu sắc xúc động của nhân vật cha Sửu và nhân vật con Tí.

Đoạn trích “Cha con nghĩa nặng” mà chúng ta được học được tác giả xoay quanh ba nhân vật chính, song hai nhân vật để lại dấu ấn nhất đó là nhân vật: Sửu và Tý. Tuy chỉ nằm trong đoạn trích ngắn, nhưng bằng lối viết tinh tế và sắc sảo của Hồ Biểu Chánh, nhưng số phận éo le của nhân vật sửu hiện lên khá đầy đủ. Có thể nhận thấy được trong đoạn trích Trần Văn Sửu trước sau như một là người nông dân thuần phát, thương vợ, thương con, chăm chỉ hiền lành. Vô tình làm chết vợ, Sửu phải trốn tránh, sống chui lủi, đến tên tuổi của mình cũng phải tìm mọi cách để xóa sạch vì sợ pháp luật săn đuổi, chừng trị. Trên mười năm trời, Trần Văn Sửu phải chịu đau khổ về cả thể xác và tâm hồn, chịu cảnh cắn dứt dằn vặt lương tâm. Điều này đã được tác gải tái hiện qua lời nói của nhân vật khi gặp lại bố vợ và đứa con trai yêu quý của mình. “Con thương vợ con lắm. Tại nó làm quá, con giận xô nó té, nó chết chớ không phải con giết nó. Xin tía thương thân con”.

Đúng vậy, người đọc có thể thấy nhân vật vợ Sửu hiện lên là một người lăng loàn, trực tiếp gây nên cuộc sống bất hạnh cho Sửu, và các con. Vợ Sửu như thế, nhưng Sửu lại không than trách, mà vẫn thương xót người đã chết để rồi cắn dứt lương tâm của mình vì đã vô tình giết vợ. Khi Sửu nói chuyện với con trai, Tí có ý trách mẹ, Sửu liền đứng ra phân trần cho người con hiểu “Má quấy là quấy với cha, chớ không phải con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, mà con vãn nhớ làm chi?” nói ra điều này, Trần Văn Sửu muốn Tí khỏi trách người mẹ và đã khẳng định sở dĩ cuộc đời mình éo le, cực khổ là do “số mạng” chứ không phải do lỗi tại vợ. Trong cuộc sống không đáng sông nhưng Sửu vẫn sông vì thương con, và nhận do mình chứ không phải do vợ. Qua đây có thể thấy được nhân vật Trần Văn Sửu được tác giả hiện lên là một người lương thiện, hiền lành, chất phác, thương vợ, thương con. Không chỉ thế Trần Văn Sửu ông còn là một người có tấm lòng đôn hậu, vị tha, có tấm lọng rộng lượng. Tình thương của Trần Văn Sửu không phải là nội dung cốt lõi của đoạn trich, nhưng nó góp phần vào việc xây dựng nội tâm nhân vật khá nhất quán của tác giả.

Như chúng ta đã nói ở trên, đoạn trích để lại cho người đọc hai nhân vật có dấu ấn nhất đó là Sửu và Tí. Tí được hiện lên qua tình yêu thương, nỗi nhớ con của Trần Văn Sửu. Điều này được thể hiện khá thành công bằng việc xây dựng tình huống giàu kịch tính. Đó là việc ông Sửu đã tìm về làng, tìm lại đứa con sau bao năm tháng xa cách, nhớ nhung để giãy bày nỗi lòng mình. Mặc kệ những ánh nhìn, những sự soi mói của họ hàng, người thân, nhưng lòng thương con ông vẫn kiên quyết “xăm xăm bước đi về cửa”, cũng chính vì lòng yêu thương con vô bờ bến đã biến ông thanh một người yếu mền chân thực : khóc dòng dòng và đã không kiềm chế được cảm xúc của bản thân: “chết không được vì thương sắp nhỏ quá”; “Con thương sắp nhỏ quá”; “Con nhớ sắp nhỏ quá”…Ông cũng đã thức tình được lòng tốt của Hương Thị Tào và Hương Thị Tào cho ông biết lũ nhỏ vẫn còn thương ông lắm, khi nghe vậy, Trần Văn Sửu chỉ muốn được thấy mặt chúng dù phải giấu mình dưới dạng thổ dân.

Nếu như ở đoạn một, tác giả khắc họa tình cảm của cha đối với con, thì ở đoạn hai này lại là tình cảm của người con đối với người cha.  Cuộc đối thoại lúc trở về dưới ánh trăng của Trần Văn Sửu và bố vợ bị thằng Tí nghe thấy hết vì nó rình ở cửa. Chính chi tiết này cũng tạo nên cao trào, vì thương con mà sống, nhớ con mà về, nhưng lại vì con mà không nỡ gặp, dứt áo ra đi vì sợ tiếng tai của mình liên lụy đến con, tiền đồ của con lại ra đi trong đau khổ thương nhớ, nhưng khi ra đi Tí lại giữ ông lại, và rồi khi biết con mình sắp giàu ông lại thấy mình như cản trở nó và chỉ muốn nhảy xuống sông tự tử. Tình cha con làm người đọc khong khỏi xúc động “Cha con ôm nhau mà khóc” khi Tí đuổi theo ông Sửu. Cuộc hội thoại của hai cha con càng thể hiện lên tình cha con nghĩa nặng. Nếu người cha quay về Tí sẽ bị ảnh hưởng bởi tiếng tai của người cha nhưng bất chấp hi sinh sự giàu sang để cùng sống với bố của mình, thái độ kiến quyết, chân thành của Tí làm cho người đọc không khỏi rung động. Đây cũng chính là “nghĩa nặng” của tình cha con trong đoạn trích.

Như vậy, qua đoạn trích ta có thể thấy được Hồ Biểu Chánh đã khắc họa lên tình cảm cha con đầy kịch tính, từ đó thấy được những tình cảm thiêng liêng nghĩa nặng của tình máu mủ. Đoạn trích bên cạnh nghệ thuật miêu tả dựng cảnh khác, hấp dẫn phải nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả. Cha con nghĩa nặng mang dấu ấn của thời kỳ đầu văn chương đổi mới theo xu hướng hiện đại.

Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 2

Trước khi Tự lực văn đoàn xuất hiện (1932), Hồ Biểu Chánh đã cho ra mắt bạn đọc ngót 20 cuốn tiểu thuyết; ông được khẳng định là một trong số ít những cây bút quan trọng đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hồi đầu thế kỉ, có thời gian ảnh hưởng khá lớn ở Nam Bộ.

Tuy còn những mặt hạn chế, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã thể hiện tương đối chân thực cuộc sống và con người Nam Bộ với những sắc thái địa phương độc đáo. Thông qua số phận của nhiều nhân vật, tác giả bộc lộ một quan niệm nhân đạo đáng quý. Nhà văn cảm thông với bao kiếp người bị đày đau khổ, lên án cái sấu xa tàn ác, ngợi ca đạo lí làm người…

Tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng ra đời năm 1929. Dưới đây là tóm tắt sơ lược nội dung tác phẩm: Trần Văn Sửu và thì Lựu lấy nhau sinh được ba đứa con: thằng Tí, con Quyên và thằng Sung. Sửu là một nông dân chất phát, cần cù, thật thà, trái lại thị Lựu có tính đĩ thỏa, lăng loàn. Thì tư tình với Hương hào Hội, nhưng khi chồng hỏi đến, thị thường tìm cách chối cãi, lấp liếm đi. Làng xóm ai cũng biết, riêng Sửu vẫn thực thà tin vợ. Một đêm, Sửu nằm giữ lúa ngoài ruộng, bị đau bụng liền chạy về nhà tính lấy dầu uống, bắt quả tang vợ thông dâm với Hương hào Hội. Sửu toan bắt gian phu nhưng thị Lựu níu áo chồng cho hắn chạy thoát, lại còn giở giọng mắng chửa chồng. Quá giận, Sửu đạp vợ ngã, không may đập đầu phải thành ván chết ngay. Vừa hối hận, vừa sợ tội, Sửu liền bỏ trốn. Sau đó người ta tìm thấy trên bờ sông một cái áo trong có giấy thế thân của Sửu, rồi lại vớt được một cái xác mặt đã bị cá ăn hết. Ai cũng cho rằng Sửu đã tự tử chết.

Ba đứa con của Sửu được ông Ngoại là Hương Thị Tào đem nuôi, rồi đứa nhỏ mắc bệnh chết. Thằng Tí thương ông nghèo cực, vất vả, xin ông cho đi giữa trâu cho bà Hương quản Tôn để lấy tiền công nương em. Bà Hương quản Tôn là người nhân đức, thấy thằng Tí thật thà, siêng năng, biết thương ông, thương em, lại thấy con Quyên cũng ngoan ngoãn, dễ thương nên mướn cả hai anh em nó để đỡ việc nhà. Dần dần bà yêu quý con Quyên như con đẻ. Còn thằng Tí đi ở mướn năm 20 tuổi thì xin về làm ruộng và phụng dưỡng ông ngoại già yếu. Thấy nó chăm chỉ, biết làm ăn, lại được Hương quản đỡ đầu, trong làng nhiều người muốn gả con cái cho nó.
Bà Hương quản Tôn có một con trai là Ba Giai ham chơi bời, bỏ nhà đi đã lâu, sau ăn năn xin trở về, nhưng bà còn giận, không đồng ý. Cậu gởi thư xin lỗi mẹ, đồng thời tỏ ý oán trách mẹ đã nghe lời người dưng xúc xiển hòng tranh đoạt gia tài bà Hương quản càng giận và quyết bỏ cậu.

Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 3

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm…, chẳng biết câu thơ của nhà văn Nam bộ Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng trực tiếp tới quan điểm sáng tác của Hồ Biểu Chánh hay không? Nhưng xét về một mặt nào đó, có thế nói con thuyền văn chương của nhà thơ trung đại và nhà văn hiện đại này đều mang nặng một thứ hàng vốn vô tận và vô giá: đạo lí. Tôi muốn nói cảm hứng bao trùm lên sự nghiệp thơ văn của hai tác giả này là cảm hứng đạo lí. Bốn năm trước khi Đồ Chiểu mất, Hồ Biểu Chánh đã ra đời. Phải chăng con đường văn chương đạo lí của nhà văn họ Hồ chính là một sự kê tục nào đó của tinh thần đạo lí của bậc tiền bối kia? Với một sự nghiệp văn chương đồ sộ – 60 cuốn tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh xứng đáng là một tiểu thuyết gia đã góp phần xây dựng nên từ buổi sơ khai của thế kỉ XX cái nền móng vững chắc cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Một thế kỉ đã đi qua, trong văn chương Hồ Biểu Chánh, dĩ nhiên có những phần, những khía cạnh không chịu được thử thách của thời gian. Song, có những giá trị đã vượt qua tình trạng sơ khai vẫn có thổ cảm động người đọc cuối thế kỉ này và hẳn nó chưa chịu dừng lại ở đấy bởi vì đạo lí làm người một khi đã thành tâm huyết lớn của cả một đời văn, đã hóa thân thành những hình tượng có sức sống lớn thì nó sẽ đem lại cho văn chương khả năng trường tồn. ở một phạm vi hẹp hơn, chừng nào văn còn có khả năng cảm động lòng người, chừng ấy nó không cũ. Đọc đoạn trích của Cha con nghĩa nặng, người đọc đã có được ở đây một sự cảm động như thế.

Đúng là văn xuôi đã tự làm giàu cho mình bằng vay mượn, tận dụng, kế thừa ưu thế của các thể loại khác, cho nên chúng ta thấy có loại văn xuôi giàu chất thơ, có loại đậm chất sử thi, có loại đầy kịch tính, có loại lại khoác thêm lí luận, triết học nữa… Đọc những tác phẩm như thế, người đọc có thể làm giàu cho thị hiếu của chính mình.

Cha con nghĩa nặng là một câu chuyện đầy kịch tính mà người ta có thể dễ dàng chuyển thể thành một tác phẩm sân khấu. Toàn bộ câu chuyện là một chuỗi kế tiếp những sự kiện có tính chất xung đột, mâu thuẫn. Gia đình Trần Văn Sửu đang êm đềm bỗng nhiên tan nát. Đầu mối là việc ngoại tình của cô vợ lăng loàn, đàng điếm. Chồng phản ứng thì vợ không biết điều, lại còn thái độ hỗn hào, láo xược. Tức quá không kiềm chế được, Sử đã xô vợ. Thật không may, vợ ngã và chết. Vô tình, Sửu thành kẻ giết vợ. Sửu bỗng nhiên thành kẻ phạm pháp và vô đạo lí. Pháp lí thì có thể trốn khỏi sự truy nã, nhưng đạo lí thì không trôn khỏi tình phụ tử. Muôn được yên thân anh phải sống lẫn tránh. Nhưng muốn sống đúng đạo lí của người làm cha, anh phải trở về. Lẩn trốn cá đời thì lỗi đạo cha. Còn trở về thì có thể đầy nguy hiểm đến tính mệnh. Ấy là mâu thuẫn giằng xé trong anh ở phần trước, còn đến  đây thì đã qua. Anh trở về, nghĩa là phụ tử đã chiến thắng ý thức bảo mạng. Tình phụ tử đã khiến anh mạo hiểm trở về. Như vậy, cuộc đấu tranh bên trong anh là sự giằng xé quyết liệt giữa đạo lí và phản đạo lí, giữa nhân đạo và phi nhân đạo! Mỗi lần anh vượt lên được những tiếng nói ngáng trở, là một lần đạo lí chiến thắng.

Nhưng giờ đây, anh đang đối mặt với tình huống gay go mới, đang bước vào một mâu thuẫn xung đột mới. Mấy năm nay Sửu đi biệt tích. Cả xóm và gia đình đều yên chí rằng Sửu đã chết. Trong thời gian đó, hai đứa con của Sửu được sự chăm sóc của ông ngoại, đã lớn lên và khá giả hơn. Hiện thời, đứa con gái sắp lấy chồng, đứa con trai cũng mai mối để cưới vợ. Nếu Sửu xuất hiện, mọi chuyện vỡ lở chắc đổ bể hết.

Đoạn trích nếu được ví như một màn kịch, thì màn kịch được dàn thành hai lớp kịch chính, vừa kế tiếp vừa có phần chồng chéo lên nhau: cảnh Trần Văn Sửu gặp bố vợ và Hương thị Tào và cảnh Trần Văn Sửu gặp con trai là thằng Tí. Mỗi cảnh là một mâu thuẫn nhỏ, cả hai cảnh nằm trong một xung đột lớn. Ở đâu cũng thấy toát lên cái đạo lí làm người, phụ tử tình thâm Cha con nghĩa nặng.

Phải nói ngay rằng xung đột kịch ở đây là thuộc về hoàn cảnh chứ không phải về tính cách. Các nhân vật tham gia vào màn kịch này đều là những con người của đạo lí: một người chí nghĩa, người cha chí tình và một đứa con chí hiếu. Họ đấu tranh với nhau không phải chiến đấu với những tương phản trong tính cách cá nhân, mà xét đến cùng thì cá nhân ấy đang đâu tranh với sự nghiệt ngã của hoàn cảnh, của tình huống.

Trong quan hộ với Trần Văn Sửu, Hương thị Tào là bố vợ. Dù rằng con rể đã vô tình giết chết con gái của mình, nhưng ông bô không phải là kẻ rối trí họp tâm khiến thù hận Trần Văn Sửu. Ông vẫn dành cho Sửu sự cảm thông, thương xót. Có lúc lòng ông có gợn lên thoáng hận nào đó, ấy là khi ông mắng chửi một câu: “Mầy thiệt là khốn nạn lắm!”. Nghĩ cho cùng đó là cái phản ứng dễ có ở một người cha bị mất con gái. Song, nó cũng chỉ thoáng qua. Chi tiết ấy cho thấy Hồ Biểu Chánh hiểu lòng người chứ không chạv theo nhu cầu lí tưởng hóa một chiều để hoàn toàn đơn giản hóa tình cảm vốn phức tạp của con người. Tràn ngập lòng Hương thị Tào vẫn là sự cảm thông. Ông đã sẵn sàng tha thứ, và tha thứ tự lúc nào rồi: “Thôi, chuyện cũ bỏ di!”. Và trước tấm tình đau đớn của con rể, ông đã không cầm lòng được: “Hương thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì dộng lòng quá, chịu không nổi, nén ông củng khóc". Tình huống đặt ra với Hương thị Tào thì có nôn hay không nên đáp ứng nguyện vọng tha thiết của con rể – muôn gặp lại hai con của mình trong chốc lát. Có lẽ không phải là xung đột giữa một bên là sở nguyện của con rể, một bôn là hạnh phúc của hai cháu ngoại mà thực ra là xung đột giữa tình thương lớn và tình thương nhỏ. Sự giằng xé của những tình cảm ấy khiến ông đau khổ. Ông đuổi Sửu đi không phải vì ghét bỏ Sửu mà vì thương, vì sợ Sửu xuất đầu lộ diộn sẽ nguy hiểm tới tính mạng và làm hỏng việc đại sự trăm năm của con Sửu. Cuối cùng tình thương lớn đã thắng. Cái việc đuổi Sửu đi ngay có vẻ như tàn nhẫn nhưng không phải. Nói đúng hơn là tàn nhẫn bề ngoài, vì cực chẳng đã, cồn bên trong là tình cám sâu sắc gắn VỚI một tầm nhìn xa của một người cha. Ong giục Sửu đi sau khi đã nói rò điều hơn lẽ thiệt cho con rể. Và đến đây xung đột của canh thứ nhất đã được giải tỏa. Sửu đã nén đau khố để ra đi. Nhưng trong lòng anh đang dâng lên niềm hạnh phúc. Sửu ra đi không gặp lại con chính là chấp nhận hi sinh: hi sinh hạnh phúc nhỏ của mình (gặp các con) vì hạnh phuc lớn của con cái (để chúng được yôn ổn với những cuộc hôn nhân đang hứa hẹn). Cảnh thứ nhất khép lại với hành vi đầy cảm kích của Sửu trước sự cảm thông và lòng độ lượng cua nhạc phụ: “Trần Văn Sửu chấp tay xá cha rồi dội nón lên và bươn bả ra lộ”.

Nêu dừng lại ở đó không thôi thì Cha con nghĩa nặng mới chỉ hiện ra một phía, ấy là cha vợ và con rề. Đấy chưa phải là phần trọng tâm của tình phụ tử mà Cha con nghĩa nặng muôn nói đôn. Sau khi Trần Văn Sửu vừa đi khỏi, thằng Tí ở trong nhà dò cửa chui ra. Điều này, càng thấy rõ tính chất chuyển cảnh của sân khấu. Và cảnh thứ hai mở ra.

Trước, Trần Văn Sửu chỉ muôn sông đê gặp các con, giờ anh ta chỉ muôn chết để cho chúng được bình yên. Nếu như ở cảnh trước chỉ nghiêng về đôi thoại, thì đến đây sân khấu mở rộng hơn, hành động của nhân vật phong phú hơn. Thằng Tí cố đuối theo để gặp cha; cha nó lại ngỡ là người làng đuôi bắt, nên con chạy càng gấp cha chạy càng nhanh: tình tiết cười ra nước mắt.

Có lẽ ai cũng thây điều này: tình cảm của các nhân vật ở đây thật phân minh Bố vợ đã không vì mất con gái mà oán thù con rể, con không vì cha làm mẹ chết mà oán hận cha. Rồi đến chồng không vì người vợ lăng loàn mà khiến con cái phải khinh khi, hận thù mẹ. Người đọc cảm động trước sự phân minh, rành rẽ ấy. Hãy nghe Trần Văn Sửu nói với con: “Con không nên phiền trách má con. Má con có quấy là quấy với cha, chứ không quấy với con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, sao con còn nhỞ làm chi?”.

Tuy nhiên, mâu thuẫn cơ bản ở cảnh thứ hai này chưa phải ở những điều đó. Thằng Tí muốn cha nó quay lại, muốn được sống cùng cha, muốn phụng dưỡng cha. Ấy thế mà lòng hiếu nghĩa. Nhưng nếu là được như thế thì người cha sợ người làng bắt, tính mạng của cha sẽ nguy và hạnh phúc của nó chắc chắn sẽ bị đe doạ. Vì vậy mâu thuẫn ở đó là mâu thuẫn giữa tình thương cha và hạnh phúc của mình. Sâu xa hơn là mâu thuẫn giữa lòng vị tha và lòng vị kỉ. Thằng Tí sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình đế’ chăm sóc và che chỞ cha nó. về phía Trần Văn Sửu cũng sa vào một mâu thuẫn. Nếu Sửu bỏ đi biệt thì coi như từ nay mất hẳn hai con, nhưng các con lại được hạnh phúc. Và người cha cũng quyết chọn con đường hi sinh cái nhu cầu nhỏ của mình để làm tròn cái bổn phận lớn của người cha. Sự lựa chọn đầy tính vị tha của hai cha con dẫn đến mâu thuẫn giữa hai cha con: cha thì nhất quyết ra đi, con thì nhất quyết khồng rời cha. Cha nghe theo đứa con không phải vì nghĩ dấn hạnh phúc của mình. Ngược lại nghe theo con chẳng qua là đành lòng nhượng bộ con, nghía là cũng vì con thôi!… Cuối cùng tình thương cao cả đã chiến thắng.

Kịch phản ánh cuộc đời thông qua các xung đột mâu thuẫn. Cha con nghĩa nặng không phai là tác phẩm kịch, nhưng là một tác phẩm văn xuôi giàu yếu tố kịch. Kịch tính ở đây là vẻ đẹp độc đáo của thiên truyện này. Câu chuyện dựng nên một cảnh ngộ thương tâm của con người trong cuộc đời. Người ta thấy đạo lí làm người là bất diệt. Dù con người vẫn cứ kiêu hãnh làm người. Với tư tướng ấy có thê xem Cha con nghĩa nặng là một khúc khải hoàn ca của đạo lí đã vang lên từ đầu thế kỉ. Và có lẽ nó còn vang vọng mãi.

Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Bài số 4

Văn chương từ xưa đến nay ngợi ca rất nhiều về tình mẫu tử mà rất ít những tác phẩm viết về tình phụ tử. Với những trang viết vô cùng cảm động, nhà tiêu thuyết Hồ Biểu Chánh đã phần nào bổ khuyết vào khoảng trống đó của văn học. Cha  con nghĩa nặng đã diễn tả thành công tình nghĩa cha con, một trong những tình cảm thiêng liêng cao quí nhất của con người.

Hồ Biểu Chánh có một vị trí đặc biệt trong nền văn xuôi quốc ngữ Việt Nam trong những năm đầu thể kỉ XX. Nếu ở Bắc Bộ Hoàng Ngọc Phách nổi tiếng với tiểu thuyết Tô Tám thì ở Nam Bộ Hồ Biểu Chánh được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt bởi sức sáng tạo dồi dào, phong phú với hàng loạt những tiểu thuyết có khuynh hướng tư tưởng trong sáng, tốt đẹp (đề cao cái thiện, cổ vũ cho sự cao quý của đạo lí hình dân truyền thống: quý trọng sự thủy chung, lòng bao dung, ca ngợi sự trung thực, thằng ngay, dám hi sinh vì tín nghĩa,…). Phải đặt mình vào tác phẩm của Hồ Biểu Chánh như Cha con nghĩa nặng vào nền văn xuôi nước nhà hồi đầu thế kỉ mới có thể cảm nhận một cách đầy đủ những phẩm chất nghệ thuật của một ngòi bút tiểu thuyết giản dị, mộc mạc trong cách kể chuyện,ít gây-bất ngờ đột ngột nhưng khá cuốn hút. Hệ thống ngôn ngữ từ vựng cũng như các tình tiết về không gian, thời gian và nhân vật gần với đời thường, rất quen thuộc với người dân Nam Bộ.

Chủ đề của đoạn trích cũng như chủ đề của tác phẩm đã được nhà văn thể hiện rất rõ qua nhan đề: Cha con nghĩa nặng Tình cha con cao quý thiêng liêng đã được nhà văn thể hiện hết sức xúc động không kém những tác phẩm hay viết về tình mẫu tử.

Trần Văn Sửu là một người nông dân hiền lành, chất  phác, một người chồng thương vợ, một người cha yêu con. Thị Lựu, vợ Sửu là một người đàn bà lăng loàn, đàng điếm. Sửu bắt-quả tang vợ ngoại tình. Vợ Sửu không biết hối lỗi, còn hỗn láo. Tức giận, Sửu xô vợ ngă. Không may Thị Lựu chết, Sửu phải bỏ trốn. Mọi người tưởng anh nhảy xuống sông tự tử. Sau mười một năm trốn tránh, Sửu lên về thăm con. Gặp bố vợ, Sửu biết con mình đã có cuộc sống yên ổn. Tuy rất muốn gặp con nhưng sợ chúng liên lụy, Sửu quyết định đi biệt tích. Nhưng thằng Tí, con trai Sửu biết bố về đã chạy đuổi theo. Cha con gặp nhau mừng mừng tủi tủi.

Tinh cha con được tác giả đặt trong một tình huống nghệ thuật giàu kịch tính. Mâu thuẫn giữa tình cha thương con và hạnh phúc của con, giữa hạnh phúc của con và tình con thương cha đã bật lên lời ngợi ca: "cha con nghĩa nặng".

Cuộc chạy đuổi của hai cha con thật căng thắng. Người con vì muốn đuổi kịp cha nên đã chạy thật nhanh. Người cha một mặt vì tưởng có người đuổi bắt, mặt khác không muốn vì mình để liên lụy đến con nên càng chạy nhanh hơn. Người cha chạy vì muốn để lại phía sau sự bình yên cho các con. Người con chạy vì muốn tới kịp phía trước để giữ cha lại, lo cho tuổi già của cha. Hai-người chạy một cách vội vã, gấp gáp và họ đã gặp nhau trong tình thương yêu giành cho người mà họ yêu thương nhất.                              

Khi người cha định tự tử thì đứa con cũng vừa lao tới. Chi tiết này thể hiện kịch tĩnh ở độ căng thẳng nhất. Người con chí chậm một chút thôi là vĩnh viễn mất cha. Người cha chi nhanh thêm chút thôi là không bao giờ còn có cơ hội gặp lại con. Tiếng gọi của đứa con yêu dấu đã kéo người cha khói bàn tay của tử thần. Giây phút cha con gặp nhau thật vô cùng cảm động: "Trần Văn Sửu giật mình, tháo dầu trở vô, rồi dậy mà ngó. Thằng Tí chạy riết lợi nắm tay cha nó, dòm sát vào mặt mà nhìn, rồi ôm cổ cha mà nói: "cha ơi , cha chạy đi đâu vậy ". Lúc ấy, Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực, máu trong tìm cháy thình thịch, nưỏc trong con mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết. Cha con ôm nhau mà khóc một hồi rồi mới buông ra”. Đặt tình cha con vào ranh giới của sự sống và cái chết, sự gặp gỡ và chia li vĩnh viễn, tác.giả đã khiến người đọc vô cùng hồi hộp và cũng vô cùng hạnh phúc để rồi từ đó nhận ra tình cha con là thứ tình cảm thiêng liêng và cao quý.

Cuộc trò chuyện cảm động giữa hai cha con một mặt thể hiện tấm lòng thương yêu con của anh Sửu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu cha của thẳng Tí. Người cha vì hạnh phúc cùa con mà nhất quyết hi sinh cuộc sống riêng, muốn vĩnh viễn xạ con. Người con vì thương cha, lo cho tuổi già và sự an nguy của cha mà chạy theo tìm cha bằng được để mời cha trở về. Khi cha nhất định đi, Tí đã quyết theo cha vì "đi theo đặng làm mà nuôi  cha, chìmg nào cha chết rồi con vể". Cuộc đối thoại giằng co đầy mâu  thuẫn và xục động, tô đậm mối quan hệ máu mú ruột rà đáng quý: cha quên mình chỉ nghĩ đến tương lai hạnh phúc cùa con. Ngược lại. con hoàn toàn chỉ nghĩ đến cuộc sống an vui thanh thản lúc tuổi già cùa cha. Quả thật đây là một bài ca cảm động về tình nghĩa cha con: cha hiền, con hiếu.

Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh đã được viết cách đây bảy thập kỉ. Từ ngữ, câu văn có thể cũ nhưng tình nghĩa cha con mà ông ngợi ca trong những trang viết của mình luôn luôn lấp lánh vẻ đẹp mà con người thời đại nào cũng thấy cần thiết.

Nguyễn Tuyến tổng hợp

0