29/01/2018, 21:18

Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Văn mẫu lớp 11

Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 4 5 Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ ...

Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 4 5 Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 5 Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 1 Thạch Lam là gương mặt khá đặc biệt của nhóm Tự lực văn đoàn. Là thành viên của nhóm nhưng sáng tác của Thạch Lam không giống với các nhà văn khác cùng nhóm. Các nhà văn Tự lực văn đoàn thường hướng ngòi bút tới tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Nhân vật của họ thường là những trí thức Tây học, những cô gái mới với những khung cảnh sống nên thơ, những chuyện tình yêu lãng mạn. Tiến bộ hơn, họ thể hiện sự phản kháng của những người trẻ tuổi với những nếp sống cổ hủ và những nguyên tắc phong kiến khắt khe. Nhưng nhìn chung, Tự lực văn đoàn là nhóm sáng tác thiên về cảm hứng lãng mạn tiêu cực, trốn tránh hiện thực bằng cách xây dựng nên những thế giới của ảo tưởng để tự an ủi mình. Còn Thạch Lam thì lại khác, văn Tự lực văn đoàn thường đượm nỗi buồn lãng mạn còn văn Thạch Lam lại chất chứa nỗi đau hiện thực. Ông hướng đến những con người nghèo khổ, những số phận nhỏ bé bất hạnh. Không gay gắt, cay nghiệt như Vũ Trọng Phụng, không sâu xa như Ngô Tất Tố hay hài hước như Nguyễn Công Hoan trong phản ánh hiện thực nhưng văn của Thạch Lam vẫn thể hiện những giá trị hiện thực sâu sắc. Truyện ngắn của Thạch Lam thường giàu chất trữ tình, truyện không có cốt truyện. Nhà văn không tạo dựng những tình huống truyện éo le, gay cấn, cũng không có những xung đột thiện ác, giàu nghèo gay gắt. Truyện của Thạch Lam chỉ như những đoạn thủ thỉ tâm tình, nhẹ nhàng mà thấm thía, nhưng vẫn có giá trị phản ánh hiện thực và thể hiện những tư tưởng nhân văn sâu sắc. Hai đứa trẻ là câu chuyện về một ngày thường như bao ngày tháng khác ở một phố huyện. Nhà văn chọn bối cảnh là một ngày chợ phiên. Và thời điểm bắt đầu truyện là cảnh chợ chiều vừa tàn. Các tình tiết được kể tự nhiên theo chiều thời gian tuyến tính. Liên và An dọn hàng và bắt đầu ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm. Cuộc sống của chị em Liên và những người dân nơi phố huyện như vợ chồng bác Xẩm, mẹ con chị Tí, bác phở Siêu đều chẳng có gì đặc biệt. Tất cả đều bàng bạc, lặng lẽ và lầm lụi. Chuyện chợ tàn, chuyện chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua với một chút hi vọng được nhìn thấy trong một khoảnh khắc rất ngắn thứ ánh sáng sang trọng trên những toa tàu, hồi ức về những ngày sống sung sướng ở Hà Nội của hai đứa trẻ và những suy nghĩ của cô bé Liên là tất cả tình tiết cơ bản của câu chuyện. Một câu chuyện dung dị, đời thường, không tô vẽ và một lối kể chuyện như tâm tình thủ thỉ với chính mình là những nét riêng trong nghệ thuật kể chuyện của Thạch Lam ở Hai đứa trẻ. Trong Hai đứa trẻ, nhà văn đặc biệt chú ý đến miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật. Chính vì thế mới gọi Hai đứa trẻ là loại truyện ngắn trữ tình. Nhà văn chú ý miêu tả tâm trạng của cô bé Liên. Cảnh vật cũng được nhìn bằng ánh mắt của Liên. Là nhân vật trung tâm của truyện, những hành động của Liên không được chú tâm miêu tả. Câu chuyện như một dòng tâm trạng của nhân vật, từ khi chứng kiến cảnh chiều xuống đến khi chuyến tàu đêm đi qua. Có thể nói nhân vật Liên thuộc loại nhân vật trữ tình trong văn xuôi. Qua những cảm nhận của Liên về cảnh vật và cuộc sống xung quanh, nhà văn thể hiện một nỗi buồn thấm thía và sâu sắc về số phận con người. Nỗi buồn của cô bé Liên cứ tăng tiến dần theo sự muộn dần của đêm. Khi chợ tàn và khi nhìn cảnh chiều đến, một buổi chiều êm như ru của phố huyện, lòng Liên man mác buồn mà không rõ nguyên nhân. Khi bóng đêm bao trùm phố huyện, “một đêm mùa hạ êm như nhung”, lại càng đáng sợ hơn. Cuộc sống quá buồn tẻ. Chẳng hứa hẹn một điều gì thay đổi cả. Nỗi buồn của Liên không trực tiếp thể hiện qua ngôn ngữ mà thể hiện ở ánh mắt “trong mắt chị bóng tối ngập đầy dần”, qua tâm trạng chờ đợi chuyến tàu đêm. Cuộc sống nơi phố huyện nghèo ấy vô cùng đơn điệu, ngày hôm sau là sự lặp lại y nguyên ngày hôm trước: chị Tí lại dọn hàng nước dù chẳng hi vọng gì nhiều, vợ chồng bác Xẩm xuất hiện với chiếc đàn bầu ảo não, người nhà thầy thừa đi gọi người đánh tổ tôm… Kể cả buổi chợ đúng phiên cũng tiêu điều xơ xác, hàng họ bán chẳng được là bao. Cuộc sống tối tăm và ngột ngạt, đơn điệu và buồn tẻ. Sống trong cảnh bế tắc ấy, những người như chị em Liên đã tìm được một cứu cánh tinh thần. Họ đã hàng đêm miệt mài ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua với chút hi vọng vô cùng mong manh. Liên và An háo hức chờ đợi chuyến tàu để được gặp lại chút ánh sáng của những ngày còn được sống sung túc. Những người bán hàng chờ đợi khách xuống tàu dù họ vẫn biết chẳng mấy khi có khách xuống ở cái ga xép này. Họ đều chờ đợi và khi chuyến tàu đi qua là một ngày đã khép lại. Chuyến tàu là nơi gửi gắm niềm hi vọng hàng đêm của họ và nó mang đến phố huyện một luồng ánh sáng mới dù chỉ trong chốc lát để họ có thể thoát ra khỏi sự yên ả đến ghê sợ của đêm. Đó là thời điểm vui nhất của chị em Liên bởi chuyến tàu là thứ ánh sáng tinh thần duy nhất để chị hồi ức lại những ngày đã qua. Chuyến tàu mang đến chút sôi động trong chốc lát nhưng cũng lại làm tăng lên cái ảm đạm và tĩnh mịch của đêm phố huyện. Qua diễn biến nội tâm của nhân vật, nhà văn đã thể hiện thật sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của những con người nhỏ bé. Những kiếp người nhỏ bé vô danh nơi phố huyện nhỏ ấy rất dễ bị xã hội lãng quên. Tâm trạng của Liên cũng là tâm trạng chung của bao người đang phải sống trong bế tắc của những thân phận nhỏ bé, nghèo hèn. Nhà văn đã thể hiện một niềm cảm thông sâu sắc và tình thương yêu đối với những người không may mắn ấy. Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và vẻ đẹp thẩm mĩ của tác phẩm còn được thể hiện ở nghệ thuật lựa chọn và sáng tạo chi tiết của tác giả. Chọn những chi tiết có sức gợi tả cùng với thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản, nhà văn đã khắc hoạ thành công cảnh nghèo và cảnh sống buồn tẻ, bế tắc của người dân nơi phố huyện nghèo thời kì trước Cách mạng. Miêu tả sự nghèo nàn, tàn tạ, tác giả không tả nhà cửa, cửa hàng hay cảnh làm ăn, sinh hoạt mà chọn tả cảnh chợ tàn với hình ảnh “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của người bán hàng để lại…”. Nhưng chắc rằng chúng khó kiếm được gì bởi những thứ còn bỏ lại ở chợ chứng tỏ đây là miền quê chẳng giàu có gì. Cảnh chợ tàn bao giờ cũng gợi buồn và càng tàn tạ hơn với cảnh một phiên chợ chiều nghèo khó. Chỉ với những chi tiết nhỏ vậy thôi, cách tả của Thạch Lam làm cho người ta thấy buồn thấm thía. Khi miêu tả sự nghèo đói, Ngô Tất Tố để chị Dậu phải bán chó, bán con thậm chí có nguy cơ phải bán mình. Nguyễn Công Hoan để vợ chồng anh Pha phải rơi vào bước đường cùng, Nam Cao để Chí Phèo, để nhà văn Hộ phải đánh mất cả nhân cách của mình. Sự đói khổ huỷ hoại cả thể xác và linh hồn con người. Thạch Lam thì khác. Nhẹ nhàng nhưng thấm thía, nhà văn trữ tình này để cho cuộc sống tự nó bộc lộ và bản chất xã hội tự nó thể hiện mình mà vẫn phản ánh được bộ mặt thật của hiện thực. Cái độc đáo trong lựa chọn chi tiết của Thạch Lam là như vậy. Chỉ bằng chi tiết mà tái hiện được cả bộ mặt hiện thực. Nghệ thuật lựa chọn chi tiết còn được thể hiện khi miêu tả cảnh đêm. Nhà văn đã dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối. Ánh sáng ngọn đèn dầu ở hàng nước chị Tí, ở gánh phở của bác phở Siêu làm nổi bật sự mênh mông của đêm tối ở làng quê. Nghệ thuật tương phản làm người đọc cảm nhận rõ hơn sự mênh mông của đêm tối. Còn ánh sáng đoàn tàu vụt qua trong thoáng chốc với những ồn ào và sôi động của nó càng tăng thêm sự tĩnh mịch, tăm tối và buồn tẻ nơi phố huyện nghèo. Và ánh sáng ngọn đèn dầu của chị Tí chập chờn đi vào giấc ngủ của Liên – hình ảnh kết thúc câu chuyện – đã để lại một niềm day dứt, một dư âm cho tác phẩm. Nhẹ nhàng và tinh tế, Thạch Lam đã vẽ lên một bức tranh đầy sức gợi về một phố huyện nghèo. Qua tâm trạng của Liên, cuộc sống của hai chị em và người dân nơi phố huyện ấy, nhà văn không chỉ phản ánh hiện thực mà còn thể hiện một tư tưởng nhân văn có giá trị lâu dài. Trước hết, tác phẩm là bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo với những kiếp người nhỏ nhoi, tội tình (hai đứa trẻ, chị bán hàng nước ban ngày đi mò cua xúc tép, vợ chồng người hát xẩm…). Chẳng có gì đảm bảo cho tương lai của họ. Phía trước họ càng nhìn càng tối, ánh sáng của hi vọng dù có nhưng chỉ le lói ở chính nơi họ ngồi. Hiện thực thì nghèo khó, không gì hứa hẹn ở tương lai, những con người nhỏ bé ấy sống như thế nào. Họ gửi gắm ước mơ vào chuyến tàu đêm với một luồng ánh sáng phù hoa tan biến rất nhanh. Qua việc tả cảnh kiên trì hàng đêm chờ tàu qua rồi mới dọn hàng, mới đi ngủ của những con người ấy, nhà văn muốn thể hiện một tư tưởng nhân văn. Đó là khẳng định sự bất diệt của khát vọng, ước mơ. Cuộc sống dù nghèo khổ, tăm tối và bế tắc đến đâu cũng không thể dập tắt được hi vọng và khát vọng của con người. Tác phẩm đã thể hiện tình thương yêu vô bờ và sự trân trọng của nhà văn đối với những thân phận nhỏ bé trong xã hội. Một cốt truyện nhẹ nhàng nhưng giá trị thật sâu sắc và thấm thía. Với một con đường rất riêng, ngòi bút của Thạch Lam đã đánh thức lòng trắc ẩn trong tâm hồn mỗi con người và làm nảy sinh ở họ những tình cảm nhân văn cao đẹp. Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 2 Mang một cuộc sống cơ cực, nghèo khổ, sống trong một khu phố tồi tàn và không có một chút ánh sáng ngoại trừ những thứ ánh sáng nhấp nhoáng nhỏ xíu cùng với một kiếp người sống tàn tạ và tồi tệ. Những con người này là những kiếp người không có lối thoát, họ mong muốn được sống với một kiếp người đầy đủ, tuy không giàu có nhưng cũng đủ để họ bớt cực khổ nhưng hy vọng đó chính là mong manh đối với họ. Những kiếp người tội nghiệp. Đây là nội dung cực kỳ ý nghĩa, gúp chúng ta cảm nhận được số phận của những người nghèo khổ thông qua tác phẩm “hai đứa trả” của tác giả Thạch Lam. Ông sinh năm…người quê…, đã có công lao to lớn khi đã đóng gpóp nhiều tác phẩm có giá trị trong nên văn học của nước nhà vào thế kỷ 20. Nằm trong nhóm Tự Lự Văn Đoàn vùng với những người bạn và tác phẩm như Số Đỏ- Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo – Nam Cao. Những tác phẩm của ông vô cùng phong phú và sâu sắc, không kém những tình tiết lãng mạn. Buổi chiều – là khoảng thời gian gồm có những yếu tố tác động đến con người, làm cho những con người như chúng ta cảm thấy có một cảm giác buồn chán và vô cùng cô đơn hiu hãnh. Hơn thế nữa, trong tác phẩm “hai đứa trẻ”thì tác giả Thạch Lam đã miêu tả một buổi chiều của nơi phố huyện, một buổi chiều của một ngày tàn, tiếp đến là phiên chợ tàn và những kiếp người tàn tạ không có lối thoát, họ luôn có những ước mơ và khát vọng cháy bỏng. Cảnh mở đầu của tác phẩm chính là một buổi chiều tàn, bầu trời gồm những áng mây hồng như hòn than sắp tàn, bầu trời được nhuộm một màu sắc đỏ đỏ mang một cảm giác ưu buồn và cô đơn. Không những thế, nó còn có những thứ tiếng âm thanh ếch nhái kêu ran, tiếng trống thu không. Nói tóm lại, thông qua sự miêu tả của một ngày tàn của Thạch Lam, thì phần nào cũng giúp người đọc nhận ra một điều rằng đây là một buổi chiều buồn bã và chán nãn, càng làm them cho người đọc một cảm giác buồn man mác giống như câu: “ Người buồn chứ cảnh có vui bao giờ” Xong, buổi chiều tàn kết thúc thế là đắt đầu về đêm, xuất hiện những phiên chợ tàn. Sỡ dĩ nói đến đêm chợ tàn thì tới đây, càng làm cho người đọc hiểu rõ hơn về hương vị nghèo khó và đau khổ của những kiếp người tàn tạ nơi phố Huyện. Phiên chợ tàn nơi phố huyện, có thể đây là nguyên nhân và minh chứng nói lên sự đau khổ và nghèo khó của những con người nơi đây. Họ sống trong bóng tối cùng sự buồn chán, đau khổ và tuyệt vọng. Đối với họ, đây giống như là một địa ngục của sự tĩnh lặng và hơn hết, họ sống đều không có ngày mai. Sau khi đêm chợ tàn kết thúc, người người đều đi về, tiếng ồn ào không còn nữa, thế là bắt đầu một không khí im lặng trong đêm khuya tăm tối. không những thế, những miếng rác của người bán hàng, của những khách đi chợ đều ngoan ngoãn nằm trên mặt đất gồm những vỏ cam, võ bưởi, vỏ quất… Xong, thế là đêm khuya bắt đầu, xuất hiện hình bóng của những đứa trẻ nghèo khó nơi phố huyện này. Chúng đi từng bước, từng bước nhẹ nhàng rồi nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa bỏ vào bao tải. Tại sao chúng không làm chuyện gì khác mà lại nhặt những thứ đã bỏ đi rồi? Đối với chúng, những thức rác nằm trên đường điều có thể là những thứ còn dùng được, chúng thật tội nghiệp và bất hạnh. Thông thường, ta đều thấy xung quanh chúng ta, thậm chí là bản thân chúng ta thì đa số ai nấy điều có một gia đình khá giả, đầy đủ, giàu có và được ăn những thức quà, được sử dụng những vật chất đầy đủ, nhưng một khi đã ăn xong rồi hay còn thừa thãi, nói chung là những thứ còn dùng được thì ta lại vứt nó đi. Những đứa trẻ này lại nhặt thứ được xem là rác đem về nhà, sỡ dĩ chúng làm như thế là bởi vì chúng quá nghèo khổ. Ta thấy, cuộc sống của những người nơi phố Huyện thì họ đều là những kiếp người sống trong sự nghèo khổ, cô đơn hiu quạnh, và sống trong bóng tối không có lối thoát. Những nhân vật quen thuộc nằm trong truyện như mẹ con chị Tí, gia đình bác Siêu, vợ chồng bác Xẩm, chị em Liên và An và cụ Thi điên. Trước tiên, ta nói đến hoàn cảnh sống của mẹ con chị Tí. Mẹ con chị sống như một con thoi và hoàn toàn trong bóng tối và không có lối thoát. Hằng ngày, mẹ con chị mưu sinh bằng việc kiếm sống nhờ bán hàng, những hình ảnh trong truyện nhằm cho ta hấy được là “Trời nhá nhem tối, thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế từ trong ngõ đi ra. Chị tí, mẹ nó, theo sau, đội cái chõng trên đầu và tay xách rất nhiều đồ đạc”. thông qua hình ảnh miêu tả công việc mưu sinh của mẹ con chị Tí, thì phần nào thể hiện rõ mẹ con chị rất vất vả từng ngày, từng tháng. Không những thế, mẹ con chị xem công việc này như là cái cớ để mong thời gian trôi qua mau hơn, muốn có một cuộc sống ổn định, một công việc ổn định để làm, nhưng cho dù đây chỉ là một điều ước không thể nào thực hiện được. Đến gia đình bác Siêu, thì ta thấy, bác cũng mưu sinh bằng nghề bán phở. Đói với chúng ta ngày nay, món phở không còn xa lạ cũng như không ít ai cũng đã từng thưởng thức món phở ngon lành và tuyệt vời chỉ từ giá thành bình dân. Nhưng đối với cái phố Huyện rồi tàn này, món phở là một thức quà xa xỉ đối với họ. Công việc mưu sinh của Bác Siêu là bán phở, và cũng giống như chị Tí, nhờ công việc này để có thể mong thời gian thôi qua mau hơn, muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, dù đó là hy vọng mong manh và huyền ảo. Đến với gia đình của bác Xẩm, thì cũng như mọi người thôi, công việc làm ăn sinh sống của bác là không gì khác đó chính là hát. Bác muốn hát đê mong thời gian trôi qua mau hơn và cũng mong muốn có một công việc nào đó để có thể cải thiện được hoàn cảnh sống, thì nó xa vời lắm. Chúng ta cũng không thể nhắc đến với bà cụ Thi Điên suốt ngày đắm chìm trong cái thứ men ấy chính là rượu. Bản thân của cụ thì bị điên và mất ý thức tự chủ của bản thân. Một khi đắm chìm trong thứ men ấy thì cụ đã tồn tại nhưng tồn tại ở dạng thân thể chứ không tồn tại ở dạng có linh hồn, giống như một khói thịt khổng lồ vô tri vô giác. Những người nơi phố Huyện, họ sống, sinh ra và lớn lên ở nơi đây. Đối với họ thì không khí im lặng, sự cô đơn và buồn chán. Nhưng đối với chị em Liên và An thì nơi đây cũng chưa quen thuộc lắm bởi lẽ hai đứa trẻ này không phải là người dân nơi đây. Hai đứa trước kia là người Hà Nội chốn phồn vinh, kể từ khi cha của hai đứa thất nghiệp và chuyển về phố Huyện, thì chị em Liên và An phải nhận thức và làm quen nơi đây. Hằng ngày chị em Liên và An, không những ai đứa trẻ này mà hầu hết tất cà những kiếp người nơi phố huyện điều trông chờ một thứ rất quan trọng vào mỗi buổi tối. Không gì khác, đó chính là thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu chạy ngang từ Hà Nội. Thứ ánh sáng ấy cũng một phần soi đến phố Huyện và giúp cho khu phố trở nên có ánh sáng thêm một chút, không những thế còn có những thứ âm thanh cười nói của những người hành khách trên tàu làm cho không khí im lặng của khi phố bị ảnh hưởng một tí. Những âm thanh trên đoàn tàu giúp cho chị em Liên và An gợi nhớ đến những tháng ngày ở Hà Nội, sống một cuộc sống tươi đẹp ở chốn thành thị, người đi qua lại tấp nập và được uống với những cốc nước xanh đỏ. Ngoài ra, thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu ấy đã giúp cho những kiếp người nơi phố Huyện một phần nào đó thức tỉnh, họ dám mơ ước đến những cuộc sống ấm no và hạnh phúc, mong muốn một điều gì đó thật tốt đẹp và ý nghĩa, muốn những gì mà họ khát khao và cháy bỏng bấy lâu nay đều thành sự thật, chứ không phải là một thứ phù du mà chờ đợi mỏi mòn. Hai đứa trẻ, một tác phẩm lãng mạn, xúc động và đầy ý nghĩa. Chuyện kể về một buổi chiều tàn, những phiên chợ tàn và những kiếp người tàn tạ. Những kiếp người nơi phố Huyện, họ luôn là những con người mang một cuộc sống đáng thương nhưng đầy sự khát khao và cháy bỏng nhưng thật sự, những điều mà khát khao cháy bỏng đó thực ra chỉ là sự mong manh và huyền ảo. Cuộc đời của họ phải gánh vác cùng với số mệnh, là những kiếp người nghèo khổ, không có lối thoát. Bên cạnh đó, chuyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn thể hiện sự khát khao to lớn của một đời người,một số phận nghèo khổ muốn vươn tới một cuộc sống tốt đẹp tuy còn khó khăn và lắm chật vật. Và qua đó,tác phẩm còn cho thấy tài năng miêu tả của Thạch Lam đạt đến đỉnh cao về sự miêu tả tâm lí của nhân vật cũng như giúp người đọc nhận ra thứ tình cảm mà Thạch Lam đã dành cho những kiếp người ấy. Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 3 Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả, thầm lặng chịu đựng và giàu lòng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn nhạy cảm của ông, cũng như điểm nhìn của tác giả. Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong chùm truyện ngắn đặc sắc của ông, những hình ảnh chi tiết trong truyện giống như một dòng sông cuốn chúng ta vào đó, và cảm nhận được những gì đang xảy ra với câu chuyện của tác giả. Mọi thứ diễn ra thật nhẹ nhàng mà cũng mãnh liệt xoáy sâu vào suy nghĩ và cách cảm nhận tác phẩm của từng độc giả. Nhà văn là những người nói hộ cho hiện thực cũng có khi họ thi vị hóa cho những gì đang xảy ra xung quanh họ, từ những điều đơn giản nhất cho tới những thứ mà con người ta hay nghĩ đến, văn thơ đóng một vai trò không thể thiếu. Với ngòi bút tài hoa giàu lòng trắc ẩn, tác phẩm Hai đứa trẻ ra đời mang ý nghĩa nhân văn. Những con người xuất hiện trong tác phẩm mang một cuộc sống cơ cực nghèo khổ, cái nghèo bám lấy họ và họ không có lối thoát. Họ mong muốn có một cuộc sống sung túc, tuy không giàu có những làm sao cho cuộc sống mưu sinh đỡ vất vả. Qua đây, Thạch Lam cho ta nhìn nhận những sự khó khăn vất vả mà những con người nơi đây đang phải chống chịu. Những chi tiết trong tác phẩm tuy là miêu tả về hiện thực nhưng lại không thiếu những chi tiết sống động, lãng mạn. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh chiều tà, hình ảnh xuất hiện trong hầu hết các tác phẩm, là chính khoảnh khắc mà khiến con người ta nhận ra nỗi buồn nhiều nhất. Những âm thanh quen thuộc, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, và khung cảnh xung quanh tác động đến tâm trạng của mỗi người.Cảnh mở đầu của tác phẩm chính là một buổi chiều tàn,bầu trời gồm những áng mây hồng, như được nhuộm một màu sắc đỏ đỏ mang một cảm giác ưu buồn và cô đơn. Thông qua sự miêu tả của một ngày tàn của Thạch Lam, thì phần nào cũng giúp người đọc nhận ra đây là một buổi chiều buồn bã và chán nản. Thời gian bắt đầu chuyển động dần tới đêm, nhưng hình ảnh chiều tàn và hình ảnh chợ chiều tàn hiện ra càng thể hiện sự nghèo khổ và hiu hắt ở nơi đây. Những con người cân mẫn, luôn mong muốn cuộc sống của họ đầy đủ hơn, cuộc sống thật vất vả và đầy khổ cực bươn chải. Hình ảnh những con người xuất hiện trong “Hai đứa trẻ” tuy xuất hiện không nhiều nhưng mang một nét riêng biệt, nổi bật lên đó là hình ảnh của cô gái Liên, dù còn nhỏ nhưng tâm hồn và suy nghĩ của cô thực sự như là một thiếu nữ. Cuộc sống ở đây chìm ngập trong bóng tối và tẻ nhạt, họ sống cùng sự buồn chán và tuyệt vọng, đối với họ, họ đang sống cuộc sống tạm, một cuộc sống tĩnh lặng và không biết ngày mai sẽ như thế nào. Sau khi chợ chiều tàn, mọi người đều đi về và tiếng ồn ào cũng mất, như dấu hiệu của sự tĩnh lặng của đêm tối bắt đầu. Những rác rưởi, vỏ bưởi và hình ảnh những đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ còn sót lại chỉ là những thanh tre thanh nứa. Đêm bắt đầu buông xuống, cuộc sống của một đêm ở phố huyện nghèo lại bắt đầu. Nhân vật Liên trong tác phẩm sửa soạn lại hàng trên chiếc chõng tre, mẹ con chị tí, sáng mò cua bắt ốc, tối lại mở thêm hàng nước để kiếm thêm thu nhập. Quán hàng phở cũng bắt đầu sửa soạn còn hai cha con nhà bác Sẩm thì chưa hát chưa kéo đàn vì vẫn chưa có khách nghe. Đứa con thì nhoài ra nghịch đất cát ở bên ngoài. Mọi thứ thật đơn điệu, không có một chút niềm vui của họ, chắc có lẽ họ nghĩ và hi vọng rằng, hàng quán đắt khách kiếm thêm được tiền quả là một niềm vui một niềm hạnh phúc và mang lại một cuộc sống no đủ hơn. Hình ảnh cụ Thi điên đắm chìm vào men rượu, bước đi lảo đảo, cụ sống một cuộc sống không còn tự chủ của bản thân, có hay chăng cụ tìm đến rượu để quên lãng đi tất cả đau khổ và chìm vào đó để tìm thú vui của mình. Những con người nơi phố Huyện này, họ sống, sinh ra và lớn lên ở nơi đây. Đối với họ thì không khí im lặng, sự cô đơn và buồn chán. Nhưng với chị em Liên thì có lẽ vẫn chưa quen với sự tẻ nhạt buồn chán nơi đây,bởi hoàn cảnh đưa đẩy, bố của chị em Liên thất nghiệp phải về phố huyện để mưu sinh. Hai chị em phải nhận thức ra được điều này và làm quen dần với cuộc sống nơi đây.Hằng ngày chị em Liên và An, không những ai đứa trẻ này mà hầu hết tất cà những kiếp người nơi phố huyện điều trông chờ một thứ rất quan trọng vào môi buổi tối. Không gì khác, đó chính là thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu. Thứ ánh sáng ấy cũng một phần soi đến phố Huyện và giúp cho khu phố trở nên có ánh sáng thêm một chút, không những thế còn có những thứ âm thanh cười nói của những người hành khách trên tàu làm cho không khí im lặng của khi phố huyện có một chút thay đổi ngoài những ánh sáng tẻ nhạt và không đủ sáng như thường ngày. Những âm thanh trên đoàn tàu giúp cho chị em Liên và An gợi nhớ đến những tháng ngày ở Hà Nội,hai chị em được dẫn đi chơi,được sống một cuộc sống tươi đẹp ở chốn thành thị, ngươi đi qua lại tấp nập và được uống với những cốc nước xanh đỏ. Ngoài ra, thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu ấy đã giúp cho những kiếp người nơi phố Huyện một phần nào đó thức tỉnh, họ dám mơ ước đến những cuộc sống ấm no và hạnh phúc, mong muốn một điều gì đó thật tốt đẹp và ý nghĩa hơn, muốn những gì mà họ khát khao và cháy bỏng bấy lai nay điều thành sự thật, chứ không phải là một thứ phù du mà chờ đợi mỏi mòn. Những ước mơ của họ chỉ chợt lóe lên khi đoàn tàu chạy qua, cũng có khi có có ước mơ nhưng chỉ khi đoàn tàu chạy qua họ mới cảm thấy những mong muốn của họ mới trở nên lấp lánh và có hi vọng hơn. Hai đứa trẻ, một tác phẩm lãng mạn, xúc động và đầy ý nghĩa. Những kiếp người nơi phố Huyện, họ luôn là những con người mang một cuộc sống đáng thương nhưng đầy sự khát khao và cháy bỏng nhưng thật sự, những điều mà khát khao cháy bỏng đo thực ra chỉ là sự mong manh và huyền ảo. Qua tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn thể hiện sự khát khao to lớn của một đời người,một số phận nghèo khổ muốn vươn tới một cuộc sống tốt đẹp tuy còn khó khăn và lắm chật vật. Tài năng của Thạch Lam thông qua đó mà được bộc lô,đặc biệt là sự tinh tế tròn tả cảnh và phân tích diễn biến tâm lí nhân vật khiến truyện đi vào lòng người một cách tự nhiên nhất. Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 4 Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. Lãng mạn tích cực, đẹp. Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo. Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế. Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời. Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại. Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khốn khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu. “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ. Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Bài số 5 Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, em ruột của hai nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), xuất thân từ một gia đình công chức gốc quan lại. Ông nội nhà văn quê ở làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam, ra làm quan ở đất Bắc rồi sống luôn ngoài ấy. Thạch Lam sinh năm 1910, tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, quê mẹ. Lớn lên, ông học Trung học ở Hà Nội, rồi bỏ học đi làm báo, viết văn cùng các anh và trở thành một cây bút đắc lực của báo Phong hóa và ngày nay, sự nghiệp văn chương đang trên đà phát triển thì ông mắc bệnh lao và mất năm 1942, mới 32 tuổi. Thạch Lam sáng tác không nhiều nhưng đủ để mọi người nhận thấy ông là một nhà văn có phong cách riêng trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu sắc. Mỗi truyện của ông giống như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao cảm xúc thương yêu con người và cảnh vật. Ông có nhiều đóng góp đáng quý cho sự nghiệp phát triển văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám, đặc biệt trong thể loại truyện ngắn. Tác phẩm Thạch Lam để lại là truyện ngắn: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc,… tiểu thuyết Ngày mới; bút kí Hà Nội 36 phố phường; tiểu luận: Theo dòng… Truyện ngắn Hai đứa trẻ trích từ tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1938). Cũng như những truyện ngắn khác, tác phẩm phản ánh những cảnh đời bề ngoài dường như không có gì đáng để ý, nhưng đi vào bên trong, nơi sâu lắng của tâm hồn thì mảnh đời nào, nhất là của tầng lớp nghèo khổ, cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương cảm, có lúc sâu sắc, tinh tế đến bất ngờ. Hai đứa trẻ nói về hai chị em Liên và An. Chị độ mười hai, mười ba; em lên tám, lên chín. Gia đình trước ở Hà Nội, sau vì sa sút nên phải về quê ở phố huyện này. Mẹ bận làm hàng xay hàng xáo, giao cho hai chị em trông coi quầy hàng xén nhỏ xíu ở gần ga. Mẹ dặn phải thức cho đến khi xe lửa đi qua, may ra còn có người ở tàu xuống ghé mua hàng. Hai chị em ngồi trên chõng trước hiên chờ. Em buồn ngủ, ngả vào người chị nhưng vẫn nhắc hễ tàu đến thì đánh thức dậy. Chị ngồi nhìn quang cảnh xung quanh. Sự sống chỉ còn thu lại ở cái chõng hàng nước, một gánh phở, một gia đình nhà xẩm. Tất cả đều chìm trong bóng tối mênh mông, còn ánh sáng rực rỡ trên các toa tàu thì vun vút qua mau như từ một cõi nào xa lạ. Hai chị em trông theo làn ánh sáng ấy cho đến lúc nó khuất hẳn ở đằng xa mới đóng cửa đi ngủ. Nội dung truyện chỉ có vậy nhưng cả một thế giới đã được gợi lên với niềm thương cảm sâu xa. Đó là một thế giới âm thầm, lặng lẽ trong bóng tối của đêm đen; bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó; trong im lìm quạnh quẽ của phố huyện xác xơ. Những đốm sáng lù mù, leo lét lại càng làm nổi rõ thêm màu sắc u ám của cuộc sống khốn cùng. Cũng như ánh sáng rực rỡ thoáng qua ở các toa tàu có vẻ như một ảo ảnh xa xôi không bao giờ dám mơ ước tới. Cái thế giới ấy hai đứa trẻ đã quen thuộc, hơn nữa, đã hòa nhập vào đó với tất cả tâm hồn. Tác giả chia truyện ra làm ba phần theo trình tự chuyển biến của thời gian và không gian. Phần một là cảnh chợ chiều lúc vừa có tiếng trống thu không, hai chị em Liên đang còn loay hoay xếp dọn cửa hàng. Phần hai là quang cảnh phố huyện về đêm, bóng tối bao phủ khắp nơi. Dấu hiệu của sự sống chỉ còn là mấy ánh đèn. Phần ba là cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu đêm vun vút chạy qua trong chốc lát cùng tiếng ồn và ánh sáng. Câu chuyện diễn ra trong một khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận ở cả hai chiều thời gian và không gian. Đó là khoảng thời gian rất ngắn, không gian có sự thay đổi từ cảnh chiều tàn cho đến khi màn đêm buông xuống và đất trời về khuya. Màu sắc của cảnh vật thì từ nhờ nhờ chuyển sang đen sẫm. Màu của cuộc sống ban đêm càng khuya càng tăm tối. Trên cái nền ấy nổi lên một số cảnh tình cứ xoáy mãi vào lòng người đọc. Đó là cảnh ngày tàn nơi phố huyện nhỏ bé, một phiên chợ tàn, một góc chợ đơn sơ, một quán nước nghèo nàn, những kiếp người cơ cực và hình ảnh đoàn tàu vụt qua trong đêm tối. Mở đầu truyện là hình ảnh phố huyện lúc hoàng hôn được tác giả miêu tả bằng những câu văn có nhịp điệu thong thả, chậm rãi, cùng với những âm thanh, hình ảnh báo hiệu đã hết một ngày: Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hổn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Các hình ảnh trên đều gợi cảm giác bâng khuâng, man mác.. Gọi là phố huyện nhưng là huyện nhỏ, hiệu lệnh phát ra từ một cái chòi chứ không phải là một tháp canh. Cái chòi bé tí lại lẩn vào dãy tre làng đang đen lại, vào lúc trời tây đỏ rực nhưng sắp tàn. Ngoài cánh đồng, tiếng ếch nhái kêu ran theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng của chị em Liên, tiếng muỗi vo ve. Liên bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thìa vào tâm hồn khi ngồi bên cạnh những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy dần bóng tối. Trong bức tranh chiều tàn nơi phố huyện có sự hoà trộn giữa hai loại hình ảnh: hình ảnh êm đềm, thi vị và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng. Chẳng hạn: tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều là thơ mộng; còn tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve… thì đã gợi ra cuộc sống nghèo nàn nơi thôn dã. Thật ra, cũng khó mà nói cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn thơ ngây của hai chị em lan tỏa ra, nhuốm vào cảnh vật. Chỉ biết ở đây có một cái gì đó thật nhịp nhàng, hòa hợp giữa cảnh với người. Đoạn văn mở đầu vừa giàu hình ảnh, nhạc điệu, vừa uyển chuyển, tinh tế. Nó không những khiến người đọc hình dung ra cảnh vật mà còn khơi gợi tình cảm, xúc cảm trước thiên nhiên gần gũi, bình dị của quê hương. Sau một ngày làm lụng cực nhọc, cái chờ đợi mọi người chỉ là bóng tối và sự vắng lặng, quạnh hiu. Cảnh chợ chiều đã vãn bộc lộ rõ cái nghèo: rác rưởi vung vãi trên nền chợ và những đứa trẻ lom khom tìm kiếm những gì có thể dùng được cho cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng. Đó là mặt trái, là một thứ bóng tối của chợ. Bấy nhiêu chi tiết đều tập trung vào xu thế thu nhỏ lại, lụi tàn đi của những cảnh vật ban ngày trước cái thế chiếm lĩnh, tràn dâng mỗi lúc một mạnh của những cảnh tình ban đêm mà bóng tối dần dần ngự trị. Mở đầu truyện là bóng tối, chấm dứt truyện cũng là bóng tối. Bóng tối mênh mang, phủ trùm lên tất cả cảnh vật và con người. Lúc còn tranh tối tranh sáng, tuy các nhà đã lên đèn nhưng những nguồn sáng ấy không thể xua tan bóng tối, khiến những hòn đá nhỏ hãy còn một bên tối. Bắt đầu đêm thì đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Bác hàng phở lom khom nhóm lửa thì bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo đến tận đàng xa. Chị em Liên ngồi trên chiếc chồng tre dưới gốc bàng với cái tối chung quanh. Toàn là bóng tối. Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại đen sẫm hơn nữa. Trống cầm canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm ngay vào bóng tối. Lúc này, các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen như ngoài phố. Con tàu với ánh đèn sáng trưng đi qua rồi thì đêm tối lại bao quanh, màn đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và im lặng. Chị em Liên cũng đi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối. Bóng tối át cả ánh sáng. Vài ánh sáng thưa thớt, mờ nhạt khiến bóng tối lại càng dày đặc. Vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào cành cây, cũng như hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh trên liền trời… Thứ ánh sáng xa vời ấy là sản phẩm của đêm, hoà tan trong bóng đêm. Đáng chú ý là ngọn đèn le lói trên chõng hàng nước của mẹ con chị Tí, bếp lửa thấp thoáng nơi gánh phở của bác Siêu, ánh đèn yếu ớt trong quầy hàng của chị em Liên và từ cái đèn lồng trong tay người nhà hiệu khách, từ chiếc đèn ghi xanh lét của nhà ga. Ngọn đèn trên chõng hàng nước của chị Tí chỉ là một quầng sáng nhỏ nhoi giữa mặt đất ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời bao la thăm thẳm đầy bí mật. Bếp lửa của bác Siêu chỉ là một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng đi trong đêm tối, thoáng hiện, thoáng mất, chi làm cho bóng bác mênh mang. Ánh đèn trong cửa hàng chị em Liên thì thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Ánh đèn lồng thì lung lay cái bóng đen dài của người cầm đèn. Chiếc đèn ghi thì lửa xanh biếc như ma trơi. Trong khi đó, chung quanh những điểm sáng leo lét ấy là cả một bóng tối đen kịt, mênh mông, vô tận. Những hột sáng, những chấm lửa ấy chỉ làm cho bóng đêm thêm dày đặc, âm u. Trang sách nhuộm đầy bóng tối là để gắn vào cái khung tối tăm ấy những mảnh đời không kém tối tăm. Trong cảnh ngày tàn, chợ tàn, hiện lên những kiếp người tàn tạ. Những kẻ kiếm Sống ban ngày với phiên chợ như mấy bà bán hàng về muộn, mấy đứa trẻ nhặt rác, chị em Liên. Những người kiếm sống ban đêm quanh góc chợ và sân ga xép như mẹ con chị Tí, bà cụ Thỉ, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm… Họ có chung cuộc sống tối tăm, nghèo đói, chung cảnh ngộ tẻ nhạt, buồn chán. Tuy vậy, trong tâm hồn họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình người, tình quê hương và le lói một niềm hi vọng vào một ngày mai tươi sáng. Sau khi phiên chợ chiều đã vãn, bóng tối chưa buông xuống nhưng những cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ tranh nhau nhặt nhạnh tất cả những gì có thể dùng được, một thanh nứa, thanh tre hay bất kì cái gì. Đó là cuộc sống cùng khổ của chúng với những thứ mà người ta đã vứt đi. Vào đêm thì có cuộc đời của mẹ con chị Tí với cái hàng nước đơn sơ. Ban ngày thì hai mẹ con mò cua bắt tép; từ chập tối cho đến đêm thì bán nước chè tươi, điếu thuốc lào cho dăm ba phu gạo, phu xe, mấy chú lính trong huyện hay người nhà thầy thừa, thầy lục, có khi chờ mãi mà chẳng thấy ai ra. Hai mẹ con vừa xách, vừa vác trên lưng, vừa đội trên đầu… vậy mà chỉ vẻn vẹn có cái chõng tre, vài mặt ghế, cái ấm mấy cái chén, chiếc điếu cày, nắm đóm… Thằng con loay hoay nhóm lửa nấu nồi nước chè. Nước, thuốc đã sẵn sàng. Chị Tí luôn tay phe phẩy túm lá chuối khô, bất giác thốt lên nỗi nóng lòng sốt ruột trước cảnh ế ẩm: Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ? Dù rằng chị đã biết trước: Ối chao, sớm với muộn thì có ăn thua gì! Câu nói ngẫu nhiên mà giúp người đọc hình dung tận đáy cảnh sống của mẹ cơn chị, đã cơ cực mà chi còn trông cậy vào sự rủi may, một sự trông chờ cầm chắc là chẳng mấy hi vọng. Nhưng mẹ con chị Tí vẫn có một chiếc ghế để ngồi, một ngọn đèn để soi sáng; còn gia đình bác xẩm thì nằm ngồi ngổn ngang ngay trong chiếc chiếu rách trải trên mặt đất. Thằng con nhỏ bò ra đất, cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng trống trơ để trước mặt. Im lìm như một gia đình bò sát, nếu không có mấy tiếng đàn bầu bần bật nổi lên góp chuyện. Rồi sau đó không khách, không hát, không tiền, họ lăn ra ngủ luôn trên đất. Còn cảnh sống bí hiểm của bà cụ Thi, một bà cụ già hơi điên. Bà đến quán của chị em Liên với tiếng cười khanh khách quen thuộc, mua cút rượu (xị rượu), khen Liên rót đầy rồi ngửa cổ uống cạn sạch, lảo đảo bước đi, lẩn vào bóng tối và tiếng cười khanh khách nhỏ dần. Ba cảnh đời trên của lũ trẻ ven chợ, của mẹ con chị Tí, của gia đình bác xẩm đều bị bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó phủ lên đen ngòm. Sự thê thảm lồ lộ, chẳng ẩn giấu chút gì. Riêng bà cụ Thi vẫn có tiền uống rượu, vẫn nói năng ôn tồn, âu yếm với cô bé bán hàng nhưng rượu thì nốc một hơi, lại cười khanh khách, không biết vì duyên cớ gì? Đêm đêm, chỉ thấy bà từ trong làng đi ra rồi lại lẩn vào bóng tối phía làng. Oan ức gì chăng? Buồn khổ gì chăng? Không rõ, nhưng chắc chắn bóng tối đã đè nặng lên cuộc đời bà, góp thêm một hình ảnh vừa lạ lùng vừa đáng sợ vào những cảnh đời – bóng tối ở phố huyện này. Bác Siêu bán phở không xa nhưng cũng không gần các cảnh đời kia. Bác như dấu gạch nối giữa hạng người bần cùng với những hạng người khác trong phố huyện. Họ thấp thoáng ở nơi có người cầm đèn lồng đi đón bà chủ ở ga về, nơi có hội bài tổ tôm sát phạt nhau hàng chục bạc mà hạng người khốn khổ nằm mơ cũng không thấy nổi, nơi có lính tráng đánh trống thu không và mõ cầm canh. Cuộc sống khá giả của họ như tấm phông làm nổi bật những cảnh đói nghèo, như ánh sáng tương phản với bóng tối. Trong bối cảnh của truyện, nét nào cũng tối đen: lũ trẻ ven chợ như loài dơi chờ xẩm tối mới mò ra, tìm cái sống ở bất cứ cái gì người ta vứt đỉ. Mẹ con chị Tí hàng nước kiếm sống ở sự chờ đợi rủi may. Gia đình nhà xẩm hầu như sắp lẩn mình vào đất. Bà cụ Thi hơi điên chứa chất một góc tối om trong sâu kín tâm hồn. Nlhập chung lại thì toàn là những cảnh đời – bóng tối. Liệu còn le lói chút uớc mong nào không? Khung cảnh phố huyện giờ đây thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí, bởi ở đó còn có ngọn đèn tù mù, trong khi cả phố tối om. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ của họ. Trong bức tranh phố huyện lúc đêm về có một sự hoà trộn đầy dụng ý giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng thì chỉ là khe sáng, chấm sáng, hột sáng,… mà bóng đêm thì vừa dày đặc vừa mênh mông. Tối hết cả con đường ra sông, con đường vào làng, các ngõ càng thẫm đen hơn nữa. Tối đến mức dường như tiếng đàn bầu của bác xẩm và tiếng trống cầm canh của phố huyện tưởng chừng cũng không vang lên được. Điều này khiến người đọc phần nào hình dung ra những kiếp sống chìm khuất, mỏi mòn gần như bị bỏ quên nơi ga xép của phố huyện nghèo nàn, đồng thời gợi một niềm thương cảm sâu xa. Diễn biến tâm trạng hai đứa trẻ trước khung cảnh thiên nhiên và bức tranh đời sống nơi phố huyện được nhà văn Thạch Lam miêu tả tỉ mỉ và ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Chưa nói tới dụng ý của tác giả khi xây dựng hình tượng hai đứa trẻ và lấy đó làm nhan đề cho tác phẩm; hãy cứ biết đó là hai đứa trẻ với những đặc điểm của lứa tuổi thiếu nhi. Chị đã biết quý mến và hãnh diện với cái dây xà tích bạc vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang. Như thế thì chưa hẳn là lớn mà vẫn vương chút trẻ con. Biết thay mẹ tính toán tiền nong, sắp xếp hàng họ, biết thương em, đó mới thật là cô gái lớn ngoan hiền. Ngồi trước cửa hàng, Liên lặng lẽ cảm nhận khung cảnh chiều quê, tuy buồn bã nhưng thân thuộc, gần gũi và cảm thông, chia sẻ với những con người sống lay lắt nơi phố huyện nghèo. Hai chị em trước đây sống ở Hà Nội cùng gia đình, nhưng vì cảnh nhà sa sút nên mới dọn về đây. Mẹ mở một quán tạp hoá nhỏ xíu giao cho hai chị em trông nom. Ban ngày bán hàng, ban đêm đóng cửa cài then cẩn thận. Chập tối, mẹ ghé qua thăm, dặn các con phải thức đến lúc xe lửa đi qua mới được ngủ. Vì thế nên hai chị em Liên đã quen thuộc với con người và cảnh vật trong phố huyện, đã hoà nhập vào cuộc sống nơi này một cách hồn nhiên. Trước hết là quen với bóng tối. Hà Nội nhiều đèn quá, một vùng sáng rực và lấp lánh, còn ở đây thì ngược tại. Màn đêm buông xuống, mắt Liên ngập dần bóng tối và Liên không hiểu sao, thấy buồn. Dần dần, Liên quen không sợ bóng tôi mà còn chú ý đến những gì diễn ra và chứa đựng trong đó: thấy những hòn đá nhỏ trên đường một bên sáng một bên tối; cảm nhận mùi âm ẩm lẫn mùi cát bụi lúc chợ đã vãn mà tưởng là mùi riêng của đất này. Nhìn lũ trẻ nghèo nhặt nhạrih bất cứ cái gì trên nền chợ mà hai chị em động lòng thương. Khi mẹ con chị Tí mang vác cả hàng nước ra, Liên lặng lẽ quan sát từng cử chĩ một. Nghe tiếng cười khanh khách là Liên nhận ngay ra bà cụ Thỉ. Nhìn bọn trẻ nô đùa, An cũng muốn nhập bọn nhưng sợ trái lời mẹ dặn. Thấy một chấm lửa hiện ra rồi mất đi là hai chị em biết gánh phở bác Siêu thấp thoáng đằng xa. Lúc mọi nơi đều đã tối đen, ánh sáng từ ngọn đèn trong quán toả ra chi là vài hột sáng lọt qua phên nứa, thì hai chị em đã buồn ngủ ríu cả mắt. Khi đoàn tàu đã đi qua thì hai tâm hồn trẻ thơ ấy cũng rơi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối, giống như mọi người nghèo khổ khác ở phố huyện này. Đêm nào Liên và An cũng cố thức cho tới giờ xe lửa chạy qua theo đúng lời mẹ dặn, nhưng còn vì một lí do đặc biệt khác. Có phải là các em chi đơn giản muốn được nhìn chuyến tàu, một hoạt động cuối cùng của đêm khuya? Không phải! Còn có cái gì đó sâu xa hơn nhiều đối với hai chị em và đám người khốn khổ ở phố huyện này. Với hai đứa trẻ, đoàn tàu là một thế giới khác hẳn với cụộc sống tù túng, tẻ nhạt hằng ngày của chúng. Có lẽ chính vì vậy mà hình ảnh chuyến tàu được Thạch Lam tập trung miêu tả một cách ti mỉ, kĩ lưỡng qua tâm trạng chờ mong và cảm nhận của hai chị em Liên và An. Cách quan sát, miêu tả của Thạch Lam tinh tế và giàu tính nghệ thuật. Tác giả quan sát, miêu tả hình ảnh đoàn tàu đêm từ Hà Nội về theo trình tự từ xa đến gần bằng nhiều giác quan, bằng sự đan xen giữa hồi ức và thực tạ ỉ. Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước bằng ánh đèn của người gác ghi và tiếng còi tàu từ xa vẳng lại. Liên trông thấy ngọn lừa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng cội xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió. Sau đó, nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa… Thế rồi tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh đoàn tàu đi xa dần, mất hút trong đêm tối mênh mông, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, cái chấm nhỏ của chiêc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre… Có một sự tương phản nổi bật giữa hình ảnh đoàn tàu – một thế giới khác mà chuyến tàu đêm mang qua phố huyện trong chốc lát và hình ảnh của sự trở về trạng thái lặng lẽ, tối tăm, không thay đổi nơi phố huyện. Một bên là sự hoạt động nào nhiệt cuối cùng của đêm và một bên là sự im lặng mênh mông của đêm tối, trong giấc ngủ và cả trong sự lãng quên. Chuyến tàu đêm sáng rực, vui vẻ và huyên háo, đầy hấp dẫn nhưng lại chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi lại trả cuộc sống phố huyện về trạng thái mênh mang, yên lặng và đầy bóng tối. Điều đó dường như làm cho nỗi buồn càng thêm thấm thìa trong tâm hồn hai đứa trẻ; để lại cho chúng sự khát khao, nuối tiếc không nguôi. Gần như đã thành nếp, những người dân nơi phố huyện chĩ chấm dứt hoạt động của một ngày khi chuyến tàu đêm đã đi xa. Đối vói chị em Liên, đoàn ,tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp, nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng. Đó là cuộc sống ở một thời chưa xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này. Đoàn tàu còn là hình ảnh của tương lai, nó khiến những người nghèo khổ hình dung ra một thế giới giàu sang, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh sáng. Đối với người đọc, vẻ đẹp của đoàn tàu và thái độ háo hức, sung sướng đến lặng người của hai đứa trẻ khi ngắm đoàn tàu không chi đem đến một thoáng vui mà còn gợi thật nhiều bâng khuâng, thương cảm. Đúng là hai đứa trẻ vui vì niềm khao khát, đợi chờ vừa được thỏa mãn. Nhưng đoàn tàu ấy lại thuộc về một thế giới quá xa xôi và nó càng sáng rực, vui vẻ, huyên náo thì càng làm cho khung cảnh nơi phố huyện trở nên tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng. Chỉ có hình ảnh đoàn tàu lướt qua hằng đêm mà những người dân phố huyện ai cũng nôn nao chờ đợi. Người đọc cùng Thạch Lam thông cảm với tâm trạng của lớp người sống lầm lũi trong tăm tối, nghèo khổ. Tuy thế, truyện cũng nhen nhóm trong lòng người đ

0