29/01/2018, 21:17

Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Văn mẫu lớp 11

Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 4 5 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn ...

Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 4 5 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 5 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 1 Tương tư: trạng thái tình cảm đơn phương, nảy sinh khi có sự xa cách về thời gian và không gian. Là dạng tâm lý phức tạp, cảm xúc hỗn lộn, đầy những nhớ nhung, băn khoăn, hờn dỗi, than thở, hờn trách, nôn nao, mơ tưởng và thậm chí là ước vọng xa xôi về cái hạnh phúc được gắn bó với nhau đến trọn đời. Nguyên nhân chính là do sự khao khát được gần kề, đc góp chung tình yêu đôi lứa nhưng cũng chính là do cái khao khát mãnh liệt vượt qua mọi trở ngại, xa cách để đến với nhau. Trạng thái sống động nhất trong tình yêu với những diễn biến không phút nào đi theo một chiều: Mạch Tương tư trong bài thơ: – Nhớ nhung: Câu 1-4 – Băn khoăn, hờn dỗi: Câu 5-6 – Than thở: Câu 7-8 – Hờn trách: Câu 9-14 – Nôn nao, mơ tưởng: Câu 15-16 – Ước vọng xa xôi: Câu 17-20 Cho nên diễn biến bài thơ là diễn biến tâm trạng Tương tư của nhà thơ một cách phong phú, nhớ nhung, băn khoăn, dỗi hờn, than thở, khát vọng, mong mỏi… hòa quyện cùng với cảnh quê và hồn quê với sự xuất hiện những cặp đôi. Một người- một người, tôi- nàng, bên ấy – bên này. Hai thôn – một làng, bến – đò, hoa khuê các – bướm giang hồ, nhà anh – nhà em, thôn Đoài – thôn Đông, cau – giầu. Những trạng thái tâm lý ấy chỉ có thể là tương tư chứ không thể khác được. Nếu bảo rằng nhớ nhau hay mong nhớ hoặc nhớ người yêu thì đây chỉ là một ý nhỏ thôi, chỉ hàm chứa một trạng thái tâm lý thôi chứ không phong phú như đã nêu ở trên. Xuyên suốt bài thơ là sự diễn biến tâm trạng theo những khoảng không gian và thời gian khác nhau nữa. Vả lại ở đây nếu chúng ta nói nhớ nhau hay mong nhớ hoặc nhớ người yêu thì trạng thái tâm lý này sẽ xuất phát từ hai người đang yêu nhau và đang nhớ về nhau còn ở đây với Nguyễn Bính thì tất cả trạng thái tâm lý mà ông thể hiện trong bài thơ này là một tình yêu đơn phương. Diễn biến tâm trạng nhân vật trữ tình từ đôc thoại đến nội tâm chứ hầu như không có hồi âm từ đối phương. Cho nên ở đây chỉ có thể là Tương tư chứ không thể khác hơn được. Tương tư, một cảm xúc, một căn bệnh khó lòng mà tránh khỏi của những người đang yêu, đặc biệt là những buổi đầu, những khi mà tình yêu còn e ấp trên môi, chưa dám tỏ bày. Tương tư thường được hiểu là tâm trạng nhớ nhung, mong ngóng của đôi trai gái khi yêu, nhưng trong thực tế, diễn biến tâm trạng này chỉ xảy ra ở một phía mà cụ thể trong bài thơ này, đó là tâm trạng nhớ mong của chàng quê chất phác: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người”. Cũng như biết bao tâm hồn đã và đang tương tư khác, nỗi tương tư của chàng trai cũng được bắt đầu bằng sự mong nhớ. Nhưng kì lạ thay, tại sao ở đây lại là “thôn Đoài nhớ thôn Đông” mà không phải là ai đó nhớ một ai đó? Đơn giản bởi một lẽ, nỗi tương tư ấy đã thấm vào cả cảnh vật và lan toả khắp không gian, cũng như đại thi hào Nguyễn Du đã nhận xét: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Việc sử dụng hình ảnh hai thôn để diễn tả thay cho hai cá thể đang yêu của Nguyễn Bính quả thật rất tinh tế, nó có thể hiện được một cái gì đó đậm đà thắm thiết qua tiếng “nhớ” mà cũng có gì đó e ấp, thẹn thùng chưa dám nói ra. Thêm vào đó, điệp từ “một người” được ngăn cách bằng “chín nhớ mười mong” vừa như một nhịp cầu mà cũng vừa như tấm bình phong ngăn trở của mối tình đậm đà buổi sơ khai này vậy. Ý trách móc của chàng trai tưởng chừng như vô lý vì đã thụ động chờ đợi rồi mà còn có thái độ hờn dỗi như thế nhưng bên trong lại vô cùng logic. Tác giả đã cố ý tạo ra mọt tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm của mình, đây chính là sự trách yêu, tưởng chừng như mình đang bị hờ hững nên “hờn ngược, trách xuôi”. Có nhớ quá, thương quá nên con người ta mới có suy nghĩ viển vông: “Đã yêu thì nói rằng yêu – Không yêu thì nói một lời cho xong”, chứ cứ để cho chàng trai phải sống trong nỗi dày vò, thương nhớ không yên thế này thì làm sao mà không trách, không móc cho được. Đây chỉ là một cách bộc bạch khác trong tình yêu, một dạng “trách yêu”. Tâm trạng chàng trai quê không dừng lại ở sự nhớ mong mà từ sự nhớ mong đó, cảm xúc và diễn biến tâm lý của chàng trai được nâng lên một bậc khác đó là sự mong ngóng, đợi chờ, muốn nhìn thấy người mình yêu. Tâm trạng đó được bộc lộ rõ rang qua bốn câu thơ tiếp theo: “Hai thôn chung lại một làng, Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” Hai câu đầu cứ như có một ý gì đó tự hỏi mà cũng có một ý gì đó hờn trách nhẹ nhàng. Gấn thế cơ mà, nhưng sao “bên ấy” chẳng sang chơi “bên này”, để cho bên này phải đợi mong mỏi mòn, phải “ra ngẩn vào ngơ”, phải tương tư khổ sở thế này, “Bên ấy” có biết cho “bên này” chăng? Sao cứ còn hờ hững mãi? “Ngày qua ngày lại qua ngày”, thời gian cứ thế trôi kéo theo sự nhớ mong dai dẳng trong tâm hồn của “bên này”. Lâu lắm rồi, chờ đợi đã bao ngày rồi, đến nỗi “lá xanh” kia cũng đã “nhuộm” vàng rồi “bên ấy” à! Đối với những tâm hồn đang yêu đương cháy bỏng thì một ngày hay thậm chí một giờ một khắc không gặp người mình yêu cũng dài như mấy năm vậy. Sự vận động của thời gian được tác giả miêu tả bằng điệp ngữ “qua ngày” cùng tự “lại” ở đây đã cụ thể hóa thời gian, diễn tả được bước đi chậm chạp, nặng nề của thời gian dưới cái nhìn của một tâm trạng nóng lòng chờ đợi. Bên cạnh đó, bằng việc sử dụng hai sắc màu chủ đạo “xanh” và “vàng” cùng động từ “nhuộm” ở đây không chỉ diễn tả được sự vận động trong một quãng đường khá dài của thời gian mà còn cho thấy được tâm trạng héo mòn, khô úa vì đợi chờ của nhân vật trữ tình. Cũng vì nhớ mong, ôm ấp hình bóng ai kia mà em ơi đã bao đêm anh thức trắng. Nhựng có mấy ai biết cho mối tình đơn phương này, có ai hiểu cho con tim nồng cháy nơi anh nên anh đành phải ôm trọn một mối Tương tư tận sâu vào trong tâm khảm. Tâm trạng chàng trai lúc bấy giờ dường như có gì đó bối rối và hụt hẫng. Một ngày không gặp thì nhớ mong, hai ngày không gặp thì bồn chồn, lo lắng, ba ngày không gặp thì hờn mát, trách yêu, rồi nhiều nhiều ngày nữa không gặp thì nỗi Tương tư giờ đây đã chuyển sang một cung bậc cảm xúc cao hơn, phức tạp hơn: đó là sự buồn bã, không ăn, không ngủ, biểu hiện của một tâm hồn bị nỗi nhớ mong dày vò, dằn vặt. Biết khi nào đây? Khi nào “bến mới gặp đò”, “hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau”. Đến đây, hệ thống những hình ảnh được tác giả sử dụng đã ngày một đa dạng và phong phú hơn cũng như tâm trạng chàng trai đang diễn biến ngày càng phức tạp và đa cung bậc hơn. Điểm lại tâm trạng ấy, ta có thể thấy rõ ràng một sự tăng tiến trong cảm xúc của nhân vật trữ tình: từ nhớ mong đến chờ đợi, bồn chồn rồi đến hờn trách và tự vấn bản thân để từ đó nâng lên một bậc nữa trong cảm xúc. Cũng là sự mong muốn nhưng đã không còn chỉ là nỗi mong muốn được gặp nhau mà giờ đây, chàng trai muốn được gắn kết, được giao hòa và được kết tóc se duyên cùng người “bên ấy” ở “thôn Đông”. “Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” – Điệp từ: ngày. – Điệp ngữ: qua ngày. – “Lại”: Tâm trạng nặng nề, điểm nhấn của ngữ điệu. – Cách ngắt nhịp 3/3. Lời than thở, ngán ngẩm, giọng thơ kể lể. Sự lặp lại thời gian trong vô vọng, dòng thời gian trôi đi vô cùng chậm chạp làm cho nỗi đợi chờ càng dai dẳng, triền miên. – Động từ: nhuộm. Nói lên sự chậm chạp của thời gian, tựa như nhà thơ thấp thỏm từng ngày, từng ngày trong nỗi cô đơn, mong ngóng. Ánh mắt dõi theo nhàu lá kia từng chút một như để đếm từng nhịp đi của thời gian. Nỗi nhớ là thứ cảm xúc gì đấy mà lý trí không thể kiểm soát nỗi. – “Lá xanh” – “Lá vàng”: Thời gian có màu, thời gian càng chậm, tâm trạng con người càng thêm não nề. Thời gian và tâm trạng như đối nghịch nhau. Tương tư khiến lòng người héo hon như lá cây héo úa. – “Cây”: Tả cảnh ngụ tình. Cây là người đồng minh với tác giả, là hiện thân của nỗi nhớ. Mối duyên quê đậm nét thôn dã vì nó gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê: có thôn, có làng, có đò, có đình, có bến, có hoa bướm, có giàn giầu, hàng cau… Cách thể hiện tình yêu vừa ý nhị, vừa thiết tha. Chất dân gian của Nguyễn Bính: Cách tạo hình ảnh độc đáo: Thay vì diễn tả trực tiếp cảnh chàng trai nhớ đến cô gái, tác giả đã sử dụng hình ảnh “thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” vừa tinh tế, vừa ý nhị. Bằng việc sử dụng hình ảnh như thế, ngoài việc nói về tình yêu, tác giả còn nói lên mối gắn kết sâu sắc giữa con người với quê hương, tựa như tạo ra hai nỗi nhớ song hàng. Đây là cách nói vòng: người nhớ thôn và thôn nhớ thôn. Điều này làm cơ sở cho thủ pháp nhân hóa, chẳng những thể còn biểu đạt cả một quy luật tâm lý: khi yêu, người ta thương nhớ nhau, và nỗi nhớ ấy tựa như nhuốm màu cả cảnh vật, nhìn đâu đâu cũng thấy nhớ. Chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian: – Những hình ảnh đậm chất chân quê như: thôn, đò, bến, hoa bướm, hàng cau, giàn giầu,… – Hình bóng ca dao, thành ngữ, tục ngữ: chín nhớ mười mong. – Giọng thơ kể lễ, than thở. Lời thơ đậm đà, chất phát. Suốt bài thơ, chúng ta không khó để bắt gặp những hình ảnh đậm chất dân gian, đơn giản, mộc mạc mà có sức gợi tả, gợi cảm mạnh mẽ. Những hình ảnh ấy luôn song đôi với nhau: “thôn Đoài – thôn Đông”, “bến – đò”, “hoa – bướm”, “trầu – cau”,… và ngày càng tăng tiến trong việc thể hiện sự giao hòa, gắn kết với nhau phù hợp với việc miêu tả tâm trạng Tương tưdiễn biến phức tạp của chàng trai. Cũng qua những hình ảnh đó mà phong cách thơ của Nguyễn Bính cũng được bộc lộ và làm rõ, một phong cách thơ đậm “hồn quê” và thiết tha với những giá trị cổ truyền của dân tộc đang dần dần mai một lúc bấy giờ. Đọc Tương tư, chúng ta như đọc mộ bài ca dao dài vậy, cũng những hình ảnh quá đổi bình dị và thân quen, cùng lối viết giản dị và mộc mạc, cũng thể lục bát dân gian cô đọng mà giàu sức gợi tả. Tẩt cả hòa quyện vào nhau tạo nên một hồn thơ, một phong cách thơ rất Nguyễn Bính. Các hình ảnh sóng đôi: Thôn Đoài – thôn Đông, một người – một người, gió mưa – Tương tư, tôi – nàng, bên ấy – bên này, hai thôn – một làng, bến – đò, hoa khuê các – bướm giang hồ, nhà anh – nhà em, giàn giầu – hàng cau, cau thôn Đoài – giầu thôn Đông. Những hình ảnh hiện lên từ xa đến gần phải chăng là niềm khao khát đc sống cận kề, niềm khao khát nhân duyên đậm chất truyền thống của tác giả? Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 2 Với phong cách thơ bình dị, nhẹ nhàng, chân chất; Nguyễn Bính được xem là nhà thơ của đồng nội. Thơ Nguyễn Bính đi sâu vào tâm hồn người đọc bằng chất “quê” đặc biệt, chất “quê” của nông thôn Việt Nam. Tình yêu trong thơ ông rất đỗi ngọt ngào, sâu lắng và dìu dặt như chính con người ông. Bài thơ “Tương tư” rút trong tập “Lỡ bước sang ngang” giãi bày tâm sự thầm kín của một người đang yêu, đang thương nhớ, đang khắc khoải và mong chờ đau đáu. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bính đặt tên bài thơ là “Tương tư”, đây là cảm giác nhớ thương của một kẻ đang yêu, nói đúng hơn là của kẻ yêu đơn phương, đang mong chờ được đáp lại. Mối tình ấy được ấp ủ, được dồn nén thành lời qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhất: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người Nắng mưa là bệnh của giời Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng Một không gian thôn quê hiện lên thật bình dị, đơn sơ, và yên bình đến lạ. Thủ pháp nhân hóa được sử dụng rất tài tình, tinh tế. Tác giả mượn “thôn Đoài” và “thôn Đông” để nói lên nỗi nhớ từ tận sâu đáy lòng của mình. Chắc hẳn rằng người mà tác giả đang tương tư ở thôn Đông, còn tác giả lại ở thôn Đoài. Mối tình ấy ẩn mình trong sự thanh mát và bình dị của đồng quê. Tinh tế và sâu sắc hơn nữa tác giả đã mượn chuyện nắng của của giời để trải lòng mình. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh đã tiềm ẩn trong chính con người mình, cũng rất đỗi bình thường như bao chuyện khác, giống như quy luật của đất trời. Chỉ với 4 câu thơ ấy, đã khiến người đọc thích thú muốn tìm hiểu về mối tương tư của anh chàng thôn Đoài và cô nàng thôn Đông này. Tuy nhiên đến những câu thơ tiếp theo, dường như lại là lời trách móc nhẹ nhàng và rất chừng mừng. Trách cô gái hững hờ, trách người ta sao lại vờ như không biết gì như thế: Hai thôn chung lại một làng, Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ? Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng. Bảo rằng cách trở đò giang, Không sang là chẳng đường sang đã đành. Những đây cách một đầu đình, Có xa xôi mấy mà tình xa xôi ? Tương tư thức mấy đêm rồi, Biết cho ai, hỏi ai người biết cho ? Bao giờ bến mới gặp đò ? Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau ? Những câu hỏi dồn dập, nối tiếp nhau tạo nên sự nối rối, lo lắng và chồng chất nỗi niềm trong lòng chàng trai đang yêu. Tác giả đã mượn lối nói dân gian của ca dao, dân ca để hỏi dò cô gái sao lại hững hờ như vậy. Giọng điệu của câu thơ nhẹ nhàng, uyển chuyển, tha thiết như truyền tải thông điệp đến cho cô gái. Từ “cớ sao” như một lời trách nhưng lại rất tế nhị, đáng yêu. Mối tương tư của chàng trai trằn trọc suốt bao nhiêu đêm, nhưng chẳng biết ngỏ cùng ai, rồi cũng chẳng ai thấu cho. Bởi vậy mà chàng trai chỉ chờ đợi “bến gặp đò” để mình có thể gặp nàng. Nỗi băn khoăn trong lòng chàng trai cứ chồng chất, cứ dai dẳng và đợi chờ. Và rồi chàng trai lại tự hỏi: Nhà em có một giàn giầu, Nhà anh có một hàng cau liên phòng. Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? Nhịp điệu của thơ lục bát uyển chuyển, nhẹ nhàng, tha thiết. Tác giả mượn “giàn trầu” và “hàng cau” để diễn tả nỗi nhớ da diết và quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính thật khéo léo và tài hoa khi diễn tả nỗi nhớ bằng những hình ảnh thân quen và mộc mạc ấy. Ở 4 câu thơ này, người đọc nhận ra có sự thay đổi giữa cách xưng hô, tác giả đã mạnh dạn chuyển “tôi-nàng” thành “anh-em” rất táo bạo. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình này đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái. Cái “tôi” trữ tình của Nguyễn Bính đã được đẩy cao lên, dám bày tỏ, dám yêu. Nhưng tình cảm đó không táo bạo mà ngược lại rất chân thành, mãnh liệt, đồng thời lại rất tế nhị. Bằng những vần thơ gần gũi, chân thành, đậm hương vị đồng quê, tác giả đã gieo vào lòng người đọc những tình cảm nhẹ nhàng, tha thiết nhất của những người đang yêu. Bài thơ như một nốt nhạc trong lành và yên bình nhất. Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 3 Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trong cuộc đời, tương tư lại thường là nỗi nhớ đơn phương. Người này nhớ, mà đôi khi cứ ngỡ người kia vô tình lắm, chẳng hề biết, chẳng muốn biết rằng mình đang khổ sở vì tương tư. Thực tình, nhớ là hiện thân của yêu: một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu; một tâm hồn ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn của một trái tim đã ngừng yêu. Cho nên có kẻ nào yêu mà chẳng từng tương tư. Nguyễn Bính cũng thế! Chàng trai chân quê này tương tư và đã trải đến tận cùng những cung bậc tương tư, nói khác đi, là đã bị mọi cung bậc của tương tư giày vò đến khổ sở. Yêu nhau, mà xa nhau, tất sẽ nảy sinh nhung nhớ. Nhớ nhung, thực chất, là khát khao được có nhau, gần nhau. Xa cách về không gian và thời gian chính là duyên cớ để tương tư. Vì thế mà trong bản chất tình cảm, tương tư là một khao khát, một nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian bằng tinh thần. Không gian, thời gian vô cớ trở thành kẻ thù của những tình nhân bị xa cách. Và đây là những kẻ thù nghìn lần đáng ghét. Bởi trong nỗi tương tư, khoảng cách dù là ngắn cũng trở thành diệu vợi, nghìn trùng ; một khoảnh khắc cũng thành đằng đẵng, thăm thẳm. Đôi khi chỉ tấc gang cũng thành vực thẳm. Thậm chí, với một tình nhân giàu dự cảm thì dầu chưa xảy ra xa cách, đã khắc khoải tương tư rồi : – Vừa thoáng tiếng còi tàu Lòng đã Nam đã Bắc – Nên cả lúc gần anh Mà lòng em vẫn nhớ. (Xuân Quỳnh) Trong bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã nói lên nỗi tương tư nghìn đời của những lứa đôi. Ngay những lời mở đầu đã vẽ ra một nỗi tương tư chan chứa cả cảnh sắc thôn làng: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Một người chín nhớ mười mong một người. Chỉ vì có một chàng trai thôn Đoài đang gửi lòng say cô gái thôn Đông mà cuối cùng đã thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Cách nói bóng gió tạo hiệu quả không ngờ là hai miền không gian đang nhớ nhau. Điều này đâu phải vô cớ. Khi người ta tương tư, cảnh vật xung quanh cũng bị cuốn vào nỗi tương tư, không gian bao quanh cũng ngập tràn nhung nhớ. Người ta có nhìn bằng con mắt khách quan nữa đâu! Cảnh vật nhuốm màu tương tư cả rồi. Câu thứ hai đặc Nguyễn Bính! Ấy là giọng kể lể. Mội câu thơ được viết toàn bằng số từ! Không gian tương tư thật rõ. Câu bát có xu hướng kéo dài, nó càng dài hơn bởi giọng kể lể và chất đầy những số từ thậm xưng theo lối thành ngữ. Mỗi người đứng ở một đầu câu thơ, thăm thẳm, vời vợi. Giữa họ là một khoảng không diệu vợi. Nỗi tương tư giăng mắc một nhịp cầu "chín nhớ, mười mong", khởi lên từ đầu này và chấp chới, và mơ mòng tới đầu kia. Kế đó là một sự lí giải: Gió mưa là bệnh của giời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. So sánh mình với giời, ngông là thế mà thấy cũng chấp nhận được. Bởi cả hai có cùng một căn bệnh. Tôi và Giời hoá ra là hai kẻ đồng bệnh. Thế mà chưa hết đâu, cái tôi này còn toan tính hạ thấp cả giời trong so sánh đó nữa. "Gió mưa là bệnh của giời", thì bệnh đó là môt thứ tật, một thói hư, giời giở chứng ra – một thứ bệnh nội sinh có sẵn! Còn "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" thì là căn bệnh mắc phải do "ngoại nhập". Từ ngày yêu nàng, tôi mới mắc bệnh này. Coi tương tư là một thứ "bệnh", mới kể lể được những khổ sở của cái tôi mang bệnh. Mà bệnh này đã mắc thì… phi em vô phương cứu chữa. Trong câu thơ, thấy có cái giọng chấp nhận một thực tế, một quy luật tất yếu không cưỡng lại nổi. Cái tôi hiện ra vừa như một tình nhân đắm đuối vừa như một nạn nhân tự nguyện rước bệnh, rước khổ sở vào thân. Có phải khi yêu, lời chân thành nào cũng hoá khôn ngoan thế chăng? Có phải thế là sự khôn ngoan… dễ thương? Hình như tương tư thường bắt đầu bằng kể lể, giãi bày, và rồi chẳng mấy ai chịu dừng lại ở đó. Sẽ còn là trách móc, hờn giận, sẽ còn là dằn dỗi đơn phương, khát khao đòi hỏi,… cũng đơn phương. Nghĩa là bệnh tương tư sẽ mỗi ngày một thêm trầm trọng. Mà "kì" nhất là, cũng một không gian ấy thôi, nhưng khi đã kể lể nỗi khổ của mình – cho mình, thì nó bỗng dài ra vô tận, trái lại, đến khi trách móc, "kể tội đối phương" thì nó lại thu hẹp đến kiệt cùng : Hai thôn chung lại một làng, Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? Mở ra, "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông", tưởng chừng nghìn trùng cách trở. Đến đây, té ra sự cách trở đã hoàn toàn triệt tiêu: tuy hai thôn nhưng thực ra chỉ có một làng. Quái lạ thay là tâm lí tương tư! Khoảng cách có vậy mà khéo co giãn, biến hoá làm sao! Nhưng xem chừng, hay nhất vẫn là sự kể lể về thời gian : Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng Ngày trước, tả mối tương tư Kim – Kiều, Nguyễn Du cũng thấy cái nghịch lí trữ tình của thời gian: Sầu đong càng lắc càng đầy, Ba thu dọn lại một ngày dài ghê. Một ngày thôi mà ngỡ đã ba thu. Thế cũng đã quá ư… trầm trọng! Dẫu sao, đó vẫn là nỗi tương tư được nói bằng giọng người trần thuật, ngoài cuộc. Còn lời thơ Nguyễn Bính vẫn nguyên sự sốt ruột, khắc khoải của người trong cuộc, y như lời lẽ của người đang ngồi bóc lịch đếm từng ngày rề rà chậm chạp trôi qua một cách vô tình, thậm chí như cố tình trêu ngươi vậy! "Ngày qua ngày lại qua ngày", câu thơ di nhịp 3/3, chia thành hai vế, vế này là sự lặp lại của vế kia theo lối trùng diệp. Chữ "lại" chứa đựng một ngán ngẩm. Vừa hi vọng, vừa như thất vọng. Mỗi ngày mới đến nhen lên một hi vọng, để đến cuối ngày, hi vọng tàn đi thành vô vọng. Tất cả gợi được nhịp vận hành lặp đi lặp lại rời rã của những ngày đợi chờ, mong mỏi mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng. Câu thứ hai vẽ ra một người nóng lòng chờ đợi cùng cái cây (nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính thường bộc bạch tâm trạng cùng với một cái cây nào đó. Đây thì chẳng rõ là cây gì. Chỉ biết nó cũng nặng trĩu tương tư! Hay đó là cây tương tư ?). Kẻ tương tư và cái cây ấy có một mối tương giao kì lạ. Thời gian với kẻ tương tư chẳng vô hình. Nó có màu : ấy là màu vàng héo. Mỗi ngày qua đổ lại một dấu vết nhỡn tiên trên vòm lá. Cái cây khác nào một cuốn lịch thiên nhiên. Hơn thế, cái cây là nhân chứng của mối tương tư, là tri kỉ câm lặng của kẻ tương tư, là nạn nhân của bệnh tương tư hay là kẻ đồng nạn ? – nạn nhân bởi sự hững hờ của ai kia. Anh đợi em khi cây hãy còn xanh, đến nay cây đã vàng hết cả rồi, vậy mà… Đợi chờ làm cây héo úa, làm người héo hon! Cái cây kia là hình ảnh khác của anh! Cái cây kia chính là anh. Tả cảnh ngụ tình là thế! Phải nói chữ "nhuộm" thật đắt. Cũng viết về sự thay đổi sắc màu trên cây cỏ, khi Thuý Kiều tiễn biệt Thúc Sinh, Nguyễn Du viết: Người lên ngựa kẻ chia hào, Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Chữ "nhuốm" rất động. Nói được sự biến đổi đang diễn ra, chưa hoàn tất. Nó cũng trực tiếp ! Dường như sắc màu này vốn từ cuộc chia li ở câu trên đã hắt sang câu dưới, đã phổ vào cảnh vật nên mới "nhuốm". Nó là sự lây lan từ tinh thần con người xâm nhập vào cây cỏ. Còn chữ "nhuộm" của Nguyễn Bính gợi được thời gian. Bởi xem chừng nó tĩnh hơn. Quá trình diễn biến đã hoàn tất : lá xanh đã biến thành lá vàng rồi ! sắc thái kể lể đậm hơn. Thời gian đợi chờ của anh đằng đẵng, dằng dặc đến nồi đủ đổ nhuộm một cây xanh thành hẳn cây lá vàng cả rồi ! Lời thơ vì thế mà khổ sở, khắc khoải bội phần. Có phải tương tư là một gánh nặng đơn phương, càng nặng nề bao nhiêu, càng nghĩ "đối phương" vô tình bấy nhiêu. Vì thế mà cung bậc tương tư cứ chuyển biến rất tự nhiên từ kể lể, thở than sang trách móc ? Mà lời trách móc thì, ôi chao, đầy một lối "quy kết" khó mà "chạy tội" được: Bảo rằng cách trở đò giang, Không sang là chẳng đường sang đã đành. Nhưng đây cách một đầu đình, Có xa xôi mấy mù tình xa xôi… Vẫn cái "luận điệu" dễ ghét ấy. Kể lể nông nỗi mình thì cũng một sự xa cách kia mà hoá muôn trùng, thãm thẳm. Còn ở đây thì "phủ định sạch trơn" : không hề có xa cách – khồng có cách trở đò giang, không phải không có đường, mà thậm chí còn gần lắm, chỉ có một đầu đình thôi. Tất cả chỉ do em hờ hững chứ chả có lí do khách quan gì! Người đâu có người mỗi lời lại một vận vào người ta thế có "khiếp" không! Nhưng không có luận điệu ấy thì làm sao có thể "quy chụp" người ta vô tình được! Sao những trái tim yêu lại có thể "ranh mãnh" một cách hồn nhiên đến thế ! Vậy đấy, trong nỗi tương tư, trái tim thường cất lên những lời buộc tội thật dễ thương. Và khi "người ta" đã nhân danh nỗi khổ vì tương tư, thì nghe những lời buộc tội "khó chịu" đến đâu cũng đành mà "chịu khó" thôi, nghĩa là cũng thật dễ chịu thôi, chẳng phải thế sao? Trách chưa hết đã lại hờn : Tương tư thức mấy đêm rồi, Biết cho ai, hỏi ai người biết cho ! Hờn mát đến điều rồi thì lại khát khao đến độ : Bao giờ bến mới gặp đò ? Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau ? Và cuối cùng thì khẳng định đinh ninh: Nhà em có một giàn giầu, Nhà anh có một hàng cau liên phòng. Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? Tất cả đã sẵn sàng và đang nóng lòng chờ đợi. Chỉ còn em nữa thôi! Thôn Đoài đã hẳn là nhớ thôn Đông, điều ấy không còn nghi ngờ bàn cãi nữa rồi. Vậy thì, cau thôn Đoài còn biết nhớ giầu không thôn nào nữa đây. Câu thơ chứa trong nó một lô gích thật… nguy hiểm! Vậy là, trong thẳm sâu tâm lí, tương tư chính là khao khát hạnh phúc lứa đôi, khao khát thành đôi thành lứa. Khao khát ấy tràn ra trong giọng điệu khi kể lể phân trần, khi giận hờn trách móc. Khao khát ấy còn kí thác vào những cặp đôi giấu mình suốt dọc bài thơ. Ban đầu những đồi ấy còn xa xôi, càng về sau càng xích lại gần. Lần đầu, 1990, khi viết cho sách Để dạy tốt Văn 11 dành cho giáo viên, tôi mới chỉ nhận ra một nửa số cặp ấy. Giờ thống kê kĩ hơn, mới thấy nhiéu cặp đôi hơn ẩn náu khắp bài thơ: Thôn Đoài – Thôn Đông Một người – Một người Tôi – Nàng Bên ấy – Bên này Bến – Đò Hoa Khuê Các – Bướm giang hồ Nhà anh – Nhà em Và cuối cùng là : Trầu – Cau Kết như thế thật khéo ! Vòng vo, xa gần, cuối cùng vẫn cứ tụ lại ở điều cần nhất, khắc khoải nhất : ấy là trầu – cau ! Mà trầu cau là chuyện nhân duyên. Điểm truyền thống rất nổi bật ở Nguyễn Bính là quan niệm luyến ái. Là một nhà thơ mới, nhưng Nguyễn Bính không có cái chủ trương yêu hiện đại với cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây lát, cái tình ngoài thiên thu như điệu sống thời thượng bấy giờ. Các nhà thơ hiện đại chỉ quan tâm đến tình, ít quan tâm đến duyên. Nguyễn Bính quả là chân quê khi coi trọng nhân duyên. Yêu đương với chàng thi sĩ này dứt khoát phải gắn liền với chuyện trăm năm, với hôn nhân. Nghĩa là với cau – trầu. Thực ra, những cặp hình ảnh kia vẫn chưa thành đôi hẳn, mà mới chỉ ở dạng tiềm năng, vẫn còn để ngỏ và chờ đợi. Vâng, đợi chờ một vị "cứu tinh" duy nhất là Em. Em đến, trầu cau sẽ thắm lại và tất cả các cặp còn hờ kia sẽ kết thành đôi. Bệnh tương tư sẽ được cứu chữa ! Nỗi khổ sở sẽ hết giày vò ! Vân vân và vân vân. Nhưng em biết không, khi tất cả những điều kia đã thành, thì cũng là lúc nỗi tương tư bắt đầu… bị hoá giải. Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 4 Vào thời điểm thơ mới đang hưng thịnh, người ta quan tâm tới Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận,… Nguyễn Bính chỉ được ghi nhận là nhà thơ quê mùa, mang hương vị của “hương đồng gió nội” chốn thôn quê. Thông qua sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian, thơ Nguyễn Bính càng lúc càng được khẳng định, thơ ông đã đánh động, khơi nguồn những giá trị văn hóa truyền thống, đã làm sống lại ca dao dân ca vốn là nền tảng của đời sống tâm hồn dân tộc. “Tương tư” là trạng thái tình cảm, được bộc lộ nhiều nhất trong ca dao, tình yêu người Việt Nam. Đề tài này đi vào thơ Nguyễn Bính, nó vừa mang những nét rất quen nhưng cũng có nét biến thái rất lạ, “rất Nguyễn Bính”. “Tương tư” trong nghĩa chữ Hán có nghĩa là cùng yêu nhau, cùng quan tâm khắc khoải về nhau. Mối quan tâm này đặc biệt được thể hiện trong quan hệ lứa đôi. Do vậy nói đến “tương tư”, là nói tới nỗi nhớ mãnh liệt, với nghĩa hẹp là nói về tình yêu trai gái. Tuy nhiên, nghĩa thông dụng nhất của hai tiếng “tương tư" còn có một nội hàm rất hẹp nữa. Đó là tâm trạng, nhớ nhung, mãnh liệt, phập phồng trong bao nhiêu âu lo và nó thường chỉ là một thứ tình cảm đơn phương từ một phía. Do truyền thống văn hóa và đặc điểm giới tính, trong ca dao Việt Nam, văn chương Việt Nam, tương tư thường được người phụ nữ bộc lộ. Bài “Khăn thương nhớ ai”, “Sóng” của Xuân Quỳnh, hoặc “Lời ru với anh” của Lý Phương Liên., đều nói lên điều ấy. Cái lạ của Nguyễn Bính trong bài “Tương tư” này là nhân vật trữ tĩnh bộc lộ những cung bậc nỗi nhớ không phải là người con gái mà chính là một chàng trai thôn quê. Bắt đầu là một trạng thái nhớ nhung: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Một người chín nhớ mười mong một người. Gió mưa là bệnh của giời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Câu thơ thứ nhất đáng lẽ nói: “Anh ở thôn này ngồi nhớ em ở thôn kia”. Một cá nhân quan tâm tới một cá nhân. Ấy vậy mà khi tương tư người ta cảm nhận tất cả mọi người thôn Đoài ngồi nhớ tất cả mọi người thôn Đông. Thậm chí, “thôn nhớ thôn” không gian địa lí dường như có linh hồn để chúng nhớ nhau. Thủ pháp Hoán dụ ở đây đã nói lên quy luật của nỗi nhớ: Khi tương tư người ta có cảm giác thế giới quanh mình cũng chịu áp lực của nỗi nhớ. Câu thơ thứ hai xuất hiện 4/8 tiếng là số từ. Nào là “một” rồi lại “chín” rồi lại “mười” và rồi lại là “một”. Có điều tiếng “một” người đứng ởđầu và ở cuối câu thơ. Giữa người này và người kia là “chín nhớ mười mong”. Chính thành ngữ dân gian đã làm cho sự xa cách trở nên ngàn trùng hun hút. Đây không chỉ là sự xa cách không gian, địa vật lí mà là sự xa cách của không gian tâm lí. Chính nỗi nhớ với mười sự thương đã làm nên một sự ngăn cách diệu vợi giữa một người với một người. Hai dòng thơ thứ 3 và thứ 4 đều có hệ từ “là”. Nó tạo nên một so sánh có suy luận. Sở dĩ có “gió mưa” bởi vì trời trở bệnh. “Gió mưa” là biểu hiện bên ngoài của căn bệnh mà trời đang mắc phải. Bệnh của trời là do yếu tố bên trong chi phối. So sánh thứ hai là nói về mối quan hệ giữa tương tư và bệnh. Nếu trời bị bệnh biểu hiện bằng gió mưa thì tôi bị bệnh biểu hiện bằng tương tư. Trời và tôi là hai kẻ đồng bệnh. Những cái khác nhau cơ bản giữa “trời” và “tôi” là nguyên nhân gây bệnh. Vì tôi yêu thương, tôi “tương tư’ cho nên tôi mắc bệnh tương tư. Phương thuốc trị bệnh cho tôi chỉ có thể là nàng. Chừng nào sự nhớ nhung một chiều; chừng nào người ta không có mối quan tâm ngược lại với tôi thì tương tư của tôi không dứt, không hết. Trạng thái thứ hai của tương tư là băn khoăn hờn dỗi: "Hai thôn chung lại một làng, Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?" Văn hóa Việt luôn lấy làng làm đơn vị. Vì vậy, các thôn cũng thống nhất với làng, về hiện thực khách quan thì hai thôn là một. Bởi vì hai thôn chỉ là hai thành phần của một làng. Khi tự nguyện “chung lại” thì sẽ trở thành con số một duy nhất. Quy luật của tình yêu là hợp nhất, tự nguyện giữa con người con gái và người con trai để thành một cặp, một mái ấm gia đình. Nói đến thôn làng ẩn dấu phía sau là nói tới quy luật của tình yêu định hướng phía hôn nhân. Khách quan đã vậy cớ sao bên ấy và bên này lại khác biệt? Hiển nhiên, bên này rất muốn chung với bên ấy. Việc “chung lại” hòa hợp này không thành thiện thực là do bên ấy quá hờ hững. Hai tiếng “cớ sao” là sự trách cứ dỗi hờn, sự băn khoăn của bên này với bền ấy. Cung bậc thứ 3 của tương tư chính là những lời than thở: “Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”. Có thể nói, đây là hai câu thơ hay nhất trong bài Tương tư nó phản ánh một quy luật của tình yêu đơn phương đợi chờ, không có ai để sẻ chia tâm sự. Cách ngắt nhịp của thơ lục bát truyền thống là hai / hai ở đây nó đã tạo nên sự bất thường: “Ngày qua ngày (3) lại qua ngày (3)” Từ “ngày” đã lặp lại 3 lần ở câu lục (6). Nó tạo cảm giác: ngày này đi qua, ngày khác lại đến, không có thay đổi. Chờ đợi những ngày tiếp theo mong muốn có những động thái “bên ấy”. Nhưng rồi, lại qua một ngày nữa đợi chờ. Đồng thời gian trôi. Nỗi day dứt nóng ruột của kẻ tương tư cứ tăng lên. Ở câu “bát” cũng có sự ngắt nhịp rất bất thường “Lá xanh nhuộm (3) đã thành cây lá vàng (5) Sợ chờ đợi mỏi mòn đã biểu hiện bằng thị giác. Từng chiếc lá xanh “ngày qua ngày lại qua ngày” đã bị nhuộm thành màu vàng. Nhiều chiếc lá xanh đã bị tháng ngày nhuộm thành nhiều lá vàng, ở đây thời gian tương tư đằng đẵng cho những cây lá xanh thành những cây lá vàng. Nguyễn Du khi mô tả trạng thái chờ đợi lê thê và rất sốt ruột của nàng Kiều đã viết: Nay hoàng hôn (3) đã (1) lại mai hôn hoàng (4) Trong hai câu thơ Nguyễn Bính đã tách “lại”, và “đã” để dòng thời gian vẫn tiếp diễn như cũ và sự vật đã bị thời gian phủ nhận hoàn tất một quá trình. Nguyễn Du có một câu thơ rất hay: “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” “Nhuốm” là muốn nói đến màu sắc “quan san” vừa chớm vào rừng phong mùa thu. Từ “nhuốm” chỉ sự bắt đầu xâm nhập vào màu sắc nguyên thủy. Từ “nhuộm” trong thơ Nguyễn Bính cho thấy màu xanh đã thành màu vàng. Thời gian đã “nhuộm” đi, nhuộm cho xanh không còn và vàng hiện diện. Câu thơ cho thấy sự tương tư ở đây đã gặm nhấm tâm hồn thật lâu, thật nặng nề. Nó biến cái tươi tốt thành vàng héo, hủy diệt. Trạng thái tâm lí thứ 4 là hờn trách mát mẻ. “Bảo rằng cách trở đò giang, Không sang là chẳng đường sang đã đành. Nhưng nay cách một đầu đình, Có xa xôi mấy mà tình xa xôi… Tương tư thức mấy đêm rồi, Biết cho ai hỡi ai người biết cho?” Bởi tương tư là tình cảm đơn phương cho nên khi không có đối thoại chàng trai đã tự độc thoại. Nói thầm một mình mà cứ ngỡ cô gái mình yêu sẽ hiểu thấu tất cả. Rõ ràng, thôn Đoài và thôn Đông chung một ngôi đình, một làng thì hiển nhiên không có cách trở đò giang; hiển nhiên con đường từ bên ấy sang bên này không có sự cách trở. Chẳng thà thôn Đoài thôn Đông bị ngăn cách bởi sông nước. Bảo rằng cách trở đò giang, Không sang là chẳng đường sang đã đành. Nhân vật “tôi” và “nàng” ở hai thôn trong một làng nhưng thật sự hai nhà ở rất gần nhau. Anh ở bên này ngôi đình, còn chị bên kia ngôi đình mà. thôi. Cả hai chỉ cáchmột đầu đình.Do vậy, không gian địa lí, vật lí có xa xôi mấy đâu. Sự phi lí là tình lại xa xôi, vì vậy mà tương tư. Đã tương tư thì phải thao thức không biết “mấy đêm rồi” nghĩa là không hề đếm thời gian, không quan tâm tới thời gian đằng đẵng. Chàng trai hỏi người yêu, mong người yêu biết cho nỗi tương tư của mình. Hiển nhiên câu hỏi chỉ góp vào một lời thở than hờn mát. Tình cảm thứ 5 trong trạng thái tương tư chính là nôn nao mơ tưởng: Càng cảm thấy tuyệt vọng bao nhiêu người ta càng hy vọng vu vơ bấy nhiêu. Bao giờ bến mới gặp đò? Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau? “Bến và đò”, “hoa và bướm” vốn là những ẩn dụ trong ca dao, là những cặp đôi rất đẹp; rất dễ liên tưởng tới những quan hệ lứa đôi. “Đò” về “bến”, “bướm” tìm “hoa” thơm, thôn Đông phải hợp thôn Đoài. Đó là quy luật nhưng bao giờ thời điểm này xảy ra? Quả là một mơ tưởng, một hy vọng, không ước hẹn. Tâm trạng cuối cùng trong tương tư là ước vọng xa xôi. Bài thơ chuyển đổi đề tài trần thuật rất bất ngờ, tự dưng mô tả “Nhà em có y một giàn giầu”. Lời mô tả thứ hai khiến ta liên tưởng thú vị: "Nhà anh có một hàng cau liên phòng” Đây là loại cau có quả quanh năm. Hễ có trầu là có cau.Ẩn dụ trầu cau là muốn nói tới quan hệ tình nghĩa khỏi đầu cuộc hôn nhân, ở đây trầu vẫn là trầu, cau vẫn là cau. Vì thế thôn Đoài vẫn ngồi nhớ thôn Đông; “cau vẫn nhớ trầu”… có nghĩa là tình yêu cứ đơn phương, chàng trai vẫn tương tư… Tuy nhiên trầu và cau là kết hợp cặp đôi, Nói lên ước vọng xa xôi, cau rất cần trầu cũng như trầu không thể thiếu cau. “Tương tư” của Nguyễn Bính đã diễn tả một cách chân thật và có lí tình yêu đơn phương một chiều của một chàng trai quê thụ động bị nỗi mong ước dày vò. Tất cả những tâm sự, những thang bậc tình cảm ở đây đều diễn ra một cách tự nhiên và hợp lí. Bắt đầu là nỗi nhớ nhung. Nỗi nhớ không được đáp ứng nên tỏ ra băn khoăn hờn dỗi. Sự hờn dỗi không nhận được tấm lòng cảm thông cho nên chàng trai một mình than thở, hờn trách, kết tội người mình yêu. Khi biết rằng đây là tình cảm đơn phương, chàng trai nhóm lên hy vọng bằng mơ tưởng và ước vọng xa xôi. Tất cả những tình cảm tinh tế ấy được viết bằng thể thơ lục bát truyền thông thông qua những hình tượng của ca dao, dân ca… Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 5 Nguyễn Bính (1918 -1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính (có thời kì lấy tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở làng Thiện Vịnh xã Đông Hội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm mồ côi mẹ, năm 10 tuổi phải theo anh lên Hà Nội kiếm sống. Nguyễn Bính làm thơ khi mới 13 tuổi và sớm thể hiện tài năng sáng tác của mình. Năm 1943, ông vào Nam Bộ rồi ở lại tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc và tiếp tục tham gia công tác báo chí văn nghệ. Trong khi phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây thì Nguyễn Bính lại tìm về với hồn thơ dân tộc và hấp dẫn người đọc bằng chính hồn thơ này. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bính đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha. Vì thế. Nguyễn Bính được coi là thi sĩ đồng quê và có nhiều tác phẩm được truyền tụng rộng khắp. Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bính trước Cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941) Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tì bà (truyện thơ -1944); sau cách mạng có: Ông lão mài gươm (1847), Gửi người vợ miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ – 1958). Đêm sao sáng (1962), Cô Son (chèo -1961), Người lái đò sông Vị (chèo – 1962)… Bài thơ Tương tư được in trong tập thơ Lỡ bước sang ngang. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính. Tâm trạng của người con trai trong bài thơ Bản chất tâm lí của tâm trạng tương tư không chỉ có nhớ nhung đơn thuần mà là một phức hợp cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không xuôi chiều. Tâm trạng tương tư trong bài thơ diễn biến qua nhiều sắc thái cảm xúc chính như sau; Nhớ nhung: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người Gió mưa là bệnh, của giời Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. Băn khoăn, dỗi hờn: Hai thôn chung lại một làng Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? Than thở: Ngày qua ngày lại qua ngày Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng Hờn trách: Bảo rằng cách trở đò ngang Không sang là chẳng đường sang đã đành Nhưng đây cách một đầu đình Có xa xôi mấy mà tình xa xôi Tương tư thức mấy đêm rồi Biết cho ai, hỏi ai người biết cho? Nôn nao, mơ tưởng: Bao giờ biến mới gặp đò? Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau Ước vọng xa xôi: Nhà em có một giàn trầu Nhà anh có một hàng cau liên phòng Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông Cau thôn Đoài nhớ gỉầu không thôn nào? Sự phức tạp mang tính quy luật trong tâm lí khi yêu Sự bày tỏ tình cảm của người con trai trong bài thơ có điều gì bất hợp lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là anh con trai, đằng này anh lại trong vai thụ động, ngồi chờ tình yêu. Đã thể hiện sự thụ động lại còn hờn dỗi, trách móc. Đó là cái bất hợp lí bên ngoài. Tuy nhiên, trong cái bất hợp lí đó lại thể hiện, cái lí của nó. Đó là cái lí về chiều sâu. Thứ nhất, đây là một bài thơ, tác giả đã tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm, chứ không câu nệ vào lẽ khách quan. Thi sĩ phải đặt chàng trai vào thế thụ động mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư của một người con trai quê mùa, chất phác. Thứ hai, lối trách này không phải vì ghét, không giống sự qui kết trách nhịệm, đổ lỗi thông thường, mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ giày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hững hờ, nên sinh ra trách hờn, không có hàm ý ghét bỏ. Nói cách khác, trách chỉ là một cách để bộc bạch tình yêu. Cách biểu hiện thời gian của tác giả. Tâm trạng chờ đợi sốt ruột và mòn mỏi không tách rời với việc diễn ra thời gian. Nổi bật lên là việc dùng cách ngắt nhịp, phép lặp, giọng kể lể và việc tả ngụ tình, dùng sự biến đổi của không gian để biểu hiện thời gian. Câu lục: Ngày qua ngày lại qua ngày Nhịp 2/2/2 thông thường của câu lục trong lục bát truyền thông đã được ngắt thành 3/3: Ngày qua ngày lại qua ngày. Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt này khiến chữ lại ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới lập lại ngày cũ một cách chán ngán vô vọng. Cả việc ngắt nhịp, lặp vế câu và nốt nhấn giọng ở chữ lại khiến cho giọng thơ vang lên như một lời than thở kể lể ngán ngẩm. Tất cả những điều đó đã làm hiện lên hình ảnh một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mỏi mòn. Câu bát: Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng Câu thơ diễn tả thời gian và tâm trạng thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp nhưng mới thể hiện qua lời kể. Đến câu sau, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu. đúng hơn, thời gian thể hiện qua việc chuyển màu: lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu chờ đợi, lá hãy còn xanh, đến nay lá đã chuyển sang vàng rồi, thế mà vô vọng hoàn vô vọng. Thời gian và tâm trạng dường như không tìm một điểm chung với nhau; thời gian càng chậm tâm trạng càng nặng nề; tâm trạng càng nôn nóng, thời gian càng chậm chạp, lê thê. Tinh tế nhất trong cách diễn tả có lẽ là chữ nhuộm. Chữ nhuộm diễn tả thời gian chậm chạp. Có thể so sánh chữ nhuốm trong hai câu thơ sau của Nguyễn Du: Người lên ngựa kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Nhuốm nói đến sự biến đổi sắc màu mới diễn ra, đang diễn ra, còn chưa hoàn tất. Sắc màu sự vật biến đổi chủ yếu ở bề mặt, bề ngoài. Còn nhuộm thể hiện sự hoàn tất. Thời gian dài đến mức đủ để cho màu này chuyển hẳn sang màu khác. Ngoài ra chữ nhuộm còn để ngỏ chủ thể. Nhuộm nhưng ai nhuộm? không hẳn là thời gian, cũng không phải là sự chuyển màu của lá: đó chính là nỗi tương tư. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuốm thành héo úa. Kẻ tương tư và cây lá có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhân của kẻ tương tư, hay chính là hiện thân của nỗi tương tư. Có thể xem cái cây kia cũng là cây tương tư được. Đó chính là cái tinh tế, ý nhị trong lối thể hiện của Nguyễn Bính. Khung cảnh chốn quê trong bài thơ Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cành cây và chốn quê. Những chi tiết trong bài thơ về địa danh, cảnh vật, cây cỏ… thuộc về chốn quê bao đời như thôn làng Đoài, Đông, đò giang, đầu đình, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau… Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê để nhân vật trữ tình tạo ra mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thể hòa quyện vào nhau được. Cách diễn tả tâm trạng của Nguyễn Bính. Cách tạo hình độc đáo, hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra, khái quát thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn. Chính vì người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo ra cơ sở cho thủ pháp nhân hóa: Thôn Đoài ngồi nhớ… Nhưng sâu xa hơn, cách diễn đạt đó còn diễn tả một quy luật tâm lí. Khi tương tư thì cả không gian bao quanh chủ thể cũng như nhuốm nỗi tương tư ấy, vì thế trong bải thơ có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung. Nghệ thuật dùng chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian: địa danh thôn Đoài, thôn Đông cùng thành ngữ chín nhớ mười mong; dùng số từ một, chín, mười. cách tổ chức lời thơ độc đáo: đẩy đối tượng về hai đầu câu thơ, tạo ra khoảng cách (Thôn Đoài… thôn Đông, Một người…. một người). Lối sử dụng ngôn ngữ gợi được hương vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể, rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Văn mẫu lớp 11Đánh giá bài viết Có thể bạn quan tâm?Phân tích tác phẩm Tự tình – Hồ Xuân Hương – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Thương vợ – Trần Tế Xương – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Từ ấy (Tố Hữu) – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Lai tân (Hồ Chí Minh) – Văn mẫu lớp 11Nghị luận xã hội về tinh thần tự học – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Người cầm quyền khôi phục uy quyền (V.Huy-Gô) – Văn mẫu lớp 11

Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài số 1

Tương tư: trạng thái tình cảm đơn phương, nảy sinh khi có sự xa cách về thời gian và không gian. Là dạng tâm lý phức tạp, cảm xúc hỗn lộn, đầy những nhớ nhung, băn khoăn, hờn dỗi, than thở, hờn trách, nôn nao, mơ tưởng và thậm chí là ước vọng xa xôi về cái hạnh phúc được gắn bó với nhau đến trọn đời. Nguyên nhân chính là do sự khao khát được gần kề, đc góp chung tình yêu đôi lứa nhưng cũng chính là do cái khao khát mãnh liệt vượt qua mọi trở ngại, xa cách để đến với nhau.

Trạng thái sống động nhất trong tình yêu với những diễn biến không phút nào đi theo một chiều: Mạch Tương tư trong bài thơ:

– Nhớ nhung: Câu 1-4

– Băn khoăn, hờn dỗi: Câu 5-6

– Than thở: Câu 7-8

– Hờn trách: Câu 9-14

– Nôn nao, mơ tưởng: Câu 15-16

– Ước vọng xa xôi: Câu 17-20

Cho nên diễn biến bài thơ là diễn biến tâm trạng Tương tư của nhà thơ một cách phong phú, nhớ nhung, băn khoăn, dỗi hờn, than thở, khát vọng, mong mỏi… hòa quyện cùng với cảnh quê và hồn quê với sự xuất hiện những cặp đôi. Một người- một người, tôi- nàng, bên ấy – bên này. Hai thôn – một làng, bến – đò, hoa khuê các – bướm giang hồ, nhà anh – nhà em, thôn Đoài – thôn  Đông, cau – giầu.

Những trạng thái tâm lý ấy chỉ có thể là tương tư chứ không thể khác được. Nếu bảo rằng nhớ nhau hay mong nhớ hoặc nhớ người yêu thì đây chỉ là một ý nhỏ thôi, chỉ hàm chứa một trạng thái tâm lý thôi chứ không phong phú như đã nêu ở trên. Xuyên suốt bài thơ là sự diễn biến tâm trạng theo những khoảng không gian và thời gian khác nhau nữa. Vả lại ở đây nếu chúng ta nói nhớ nhau hay mong nhớ hoặc nhớ người yêu thì trạng thái tâm lý này sẽ xuất phát từ hai người đang yêu nhau và đang nhớ về nhau còn ở đây với  Nguyễn Bính thì tất cả trạng thái tâm lý mà ông thể hiện trong bài thơ này là một tình yêu đơn phương. Diễn biến tâm trạng nhân vật trữ tình từ đôc thoại đến nội tâm chứ hầu như không có hồi âm từ đối phương. Cho nên ở đây chỉ có thể là Tương tư chứ không thể khác hơn được.

Tương tư, một cảm xúc, một căn bệnh khó lòng mà tránh khỏi của những người đang yêu, đặc biệt là những buổi đầu, những khi mà tình yêu còn e ấp trên môi, chưa dám tỏ bày. Tương tư thường được hiểu là tâm trạng nhớ nhung, mong ngóng của đôi trai gái khi yêu, nhưng trong thực tế, diễn biến tâm trạng này chỉ xảy ra ở một phía mà cụ thể trong bài thơ này, đó là tâm trạng nhớ mong của chàng quê chất phác:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người”.

Cũng như biết bao tâm hồn đã và đang tương tư khác, nỗi tương tư của chàng trai cũng được bắt đầu bằng sự mong nhớ. Nhưng kì lạ thay, tại sao ở đây lại là “thôn Đoài nhớ thôn Đông” mà không phải là ai đó nhớ một ai đó? Đơn giản bởi một lẽ, nỗi tương tư ấy đã thấm vào cả cảnh vật và lan toả khắp không gian, cũng như đại thi hào Nguyễn Du đã nhận xét: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Việc sử dụng hình ảnh hai thôn để diễn tả thay cho hai cá thể đang yêu của Nguyễn Bính quả thật rất tinh tế, nó có thể hiện được một cái gì đó đậm đà thắm thiết qua tiếng “nhớ” mà cũng có gì đó e ấp, thẹn thùng chưa dám nói ra. Thêm vào đó, điệp từ “một người” được ngăn cách bằng “chín nhớ mười mong” vừa như một nhịp cầu mà cũng vừa như tấm bình phong ngăn trở của mối tình đậm đà buổi sơ khai này vậy.

Ý trách móc của chàng trai tưởng chừng như vô lý vì đã thụ động chờ đợi rồi mà còn có thái độ hờn dỗi như thế nhưng bên trong lại vô cùng logic. Tác giả đã cố ý tạo ra mọt tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm của mình, đây chính là sự trách yêu, tưởng chừng như mình đang bị hờ hững nên “hờn ngược, trách xuôi”. Có nhớ quá, thương quá nên con người ta mới có suy nghĩ viển vông: “Đã yêu thì nói rằng yêu – Không yêu thì nói một lời cho xong”, chứ cứ để cho chàng trai phải sống trong nỗi dày vò, thương nhớ không yên thế này thì làm sao mà không trách, không móc cho được. Đây chỉ là một cách bộc bạch khác trong tình yêu, một dạng “trách yêu”.

Tâm trạng chàng trai quê không dừng lại ở sự nhớ mong mà từ sự nhớ mong đó, cảm xúc và diễn biến tâm lý của chàng trai được nâng lên một bậc khác đó là sự mong ngóng, đợi chờ, muốn nhìn thấy người mình yêu. Tâm trạng đó được bộc lộ rõ rang qua bốn câu thơ tiếp theo:

“Hai thôn chung lại một làng,

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”

Hai câu đầu cứ như có một ý gì đó tự hỏi mà cũng có một ý gì đó hờn trách nhẹ nhàng. Gấn thế cơ mà, nhưng sao “bên ấy” chẳng sang chơi “bên này”, để cho bên này phải đợi mong mỏi mòn, phải “ra ngẩn vào ngơ”, phải tương tư khổ sở thế này, “Bên ấy” có biết cho “bên này” chăng? Sao cứ còn hờ hững mãi? “Ngày qua ngày lại qua ngày”, thời gian cứ thế trôi kéo theo sự nhớ mong dai dẳng trong tâm hồn của “bên này”. Lâu lắm rồi, chờ đợi đã bao ngày rồi, đến nỗi “lá xanh” kia cũng đã “nhuộm” vàng rồi “bên ấy” à! Đối với những tâm hồn đang yêu đương cháy bỏng thì một

0