13/11/2017, 23:18

Nhật Bản từ năm 1945 đến năm 2000

- Nhật Bản từ năm 1945 đến năm 1952- Nhật Bản từ năm 1952 đến năm 1973- Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 1991- Nhật Bản từ năm 1991 đến năm 2000 I. Nhật Bản từ năm 1945 đến năm 1952 - Sự thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ II đã đế lại cho Nhật Bản những hậu quả hết sức nặng nề. - Sau chiến ...

- Nhật Bản từ năm 1945 đến năm 1952- Nhật Bản từ năm 1952 đến năm 1973- Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 1991- Nhật Bản từ năm 1991 đến năm 2000

I. Nhật Bản từ năm 1945 đến năm 1952
- Sự thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ II đã đế lại cho Nhật Bản những hậu quả hết sức nặng nề.
- Sau chiến tranh, Nhật Bản đã bị quân Mĩ chiếm đóng từ năm 1945 đến năm 1952, nhưng Chính phủ Nhật vẫn được phép tồn tại và hoạt động.
- Về chính trị:
+ Bộ Chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh đã thi hành một số biện pháp để loại bỏ chủ nghĩa quân phiệt và bộ máy chiến tranh của Nhật Bản.
+ Toà án Quân sự Viễn Đông đã xét xử tội phạm chiến tranh Nhật Bản.
+ Hiến pháp mới có hiệu lực từ ngày 03 - 5 - 1947, quy định Nhật Bản là nước quân chủ lập hiến, nhưng thực tế là theo chế độ dân chủ đại nghị tư sản dựa trên ba nguyên tắc cơ bản là: chủ quyền của toàn dân, vai trò tượng trưng của Thiên hoàng và hoà bình, tôn trọng những quyền cơ bản của con người.
+ Nhật Bản cam kết từ bỏ việc tiến hành chiến tranh, không dùng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, không duy trì quân đội thường trực, chỉ có lực lượng phòng vệ dân sự bảo đảm an ninh, trật tự trong nước.
- Về kinh tế:
Trong thời kì bị chiếm đóng (1945 - 1952), SCAP đã thực hiện ba cuộc cải cách lớn:
+ Thủ tiêu chế độ kinh tế tập trung, trước hết là giải tán các “Daibatxu” (các tập đoàn, công ty độc quyền còn mang nhiều tính chất dòng tộc);
+ Cải cách ruộng đất, quy định địa chủ chỉ được sở hữu không quá 3 hécta ruộng, số còn lại Chính phủ đem bán cho nông dân.
+ Dân chủ hoá lao động thông qua và thực hiện các đạo luật về lao động.
- Chính sách dối ngoại:
+ Nhật Bản chủ trương liên minh chặt chẽ với Mĩ, Nhật sớm kí kết Hiệp ước hoà bình Xan Phranxicô (08 - 9 - 1951), chấm dứt chế độ chiếm đóng của Đồng minh vào năm 1952.
+ Cùng ngày, Hiệp ước An ninh Nhật - Mĩ được kí kết, đặt nền tảng cho quan hệ giữa hai nước. Theo đó, Nhật Bản chấp nhận sự bảo hộ hạt nhân của Mĩ, để cho Mĩ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản.
 
II. Nhật Bản từ năm 1952 đến năm 1973
* Về kinh tế:
- Từ năm 1952 đến năm 1960, kinh tế Nhật Bản có bước phát triển nhanh. Từ năm 1960 đến năm 1973, kinh tế Nhật bước vào giai đoạn phát triển “thần kì”.
- Từ đầu những năm 70 trở đi, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới (cùng với Mĩ và Tây Âu).
- Nhật Bản rất coi trọng phát triển giáo dục và khoa học - kĩ thuật, luôn tìm cách đẩy nhanh sự phát triển bằng cách mua bằng phát minh sáng chế.
- Nguyên nhân phát triển kinh tế của Nhật Bản:
+ Ở Nhật Bản, con người được coi là vốn quý nhất, nhân tố quyết định hàng đầu.
+ Vai trò lãnh đạo, quản lí có hiệu quả của Nhà nước.
+ Chế độ làm việc suốt đời, chế độ hưởng lương theo thâm niên và chủ nghĩa nghiệp đoàn xí nghiệp được coi là ba “kho báu thiêng liêng” làm cho các công ty có sức mạnh và tính cạnh tranh cao.
+ Nhật Bản biết áp dụng các thành tựu khoa học - kĩ thuật hiện đại để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
+ Chi phí cho quốc phòng của Nhật Bản thấp.
+ Nhật Bản đã tận dụng tốt các yếu tố bên ngoài để phát triển như tranh thủ các nguồn viện trợ của Mĩ sau chiến tranh, dựa vào Mĩ về mặt quân sự để giảm chi phí quốc phòng, lợi dụng các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên (1950 - 1953) và Việt Nam (1954 - 1975) để làm giàu.
- Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật Bản vẫn phải đối mặt với những thách thức:
+ Lãnh thổ Nhật Bản không rộng, dân số đông, tài nguyên khoáng sản rất nghèo nàn, thiếu nguyên, nhiên liệu.
+ Cơ cấu vùng kinh tế của Nhật Bản thiếu cân đối, tập trung chủ yếu vào ba trung tâm là Tôkiô, Ôxaca và Nagôia.
+ Nhật Bản luôn gặp sự cạnh tranh quyết liệt của Mĩ, Tây Âu, các nước công nghiệp mới (NICs).
* Về mặt chính trị:
- Từ 1955 đến răm 1993, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) liên tục cầm quyền ở Nhật Bản.
- Nhật Bản chủ trương xây dựng “Nhà nước phúc lợi chung”, tăng thu nhập quốc dân lên gấp đôi trong vòng 10 năm (1960 - 1970).
* Về đối ngoại:
- Nhật Bản liên minh chặt chẽ với Mĩ. Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật kí năm 1951 có giá trị 10 năm, sau đó có giá trị vĩnh viễn.
- Năm 1956, Nhật Bản đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Liên Xô và cũng trong năm này Nhật Bản trở thành thành viên của Liên hợp quốc.
 
III. Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 1991
Về kinh tế:
+ Sau giai đoạn phát triển thần kì, do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới, từ năm 1973 trở đi, sự phát triển kinh tế của Nhật Bản thường xen kẽ với những giai đoạn suy thoái.
+ Từ nửa sau những năm 80, Nhật Bản đã vươn lên thành siêu cường tài chính số một thế giới với lượng dự trữ vàng và ngoại tệ gấp 3 lần của Mĩ. Nhật Bản cũng là chủ nợ lớn nhất thế giới.
Về đối ngoại:
+ Với sức mạnh kinh tế - tài chính ngày càng lớn, từ nửa năm sau những năm 70, Nhật Bản cố gắng đưa ra chính sách đối ngoại mới như “học thuyết Phucưđa” (1977) và “học thuyết Kaiphu” (1991).
+ Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 21 - 9 - 1973.
 
IV. Nhật Bản từ năm 1991 đến năm 2000
- Về kinh tế, trong thập niên 90, dù có suy thoái kinh tế nhưng Nhật Bản vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới.
- Về khoa học - kĩ thuật, Nhật Bản tiếp tục phát triển trình độ cao. Tính đến năm 1992 Nhật Bản đã phóng 49 vệ tinh và hợp tác có hiệu quả với Mĩ, Nga trong các chương trình vũ trụ quốc tế.
- Về văn hoá, Nhật Bản vẫn lưu giữ được những giá trị truyền thống và bản sắc văn hoá của mình.
- Về chính trị, sau 38 năm Đảng Dân chủ Tự do liên tục cầm quyền (1955 - 1993), từ năm 1993 đến năm 2000 các đảng đối lập hoặc liên minh các đảng phái khác nhau đã tham gia chấp chính, tình hình xã hội Nhật Bản có phần không ổn định.
- Về đối ngoại:
+Tiếp tục duy trì liên minh chặt chẽ với Mĩ.
+ Coi trọng quan hệ với Tây Âu và mở rộng hoạt động đối ngoại với các đối tác khác trên phạm vi toàn cầu.
+ Từ đầu những năm 90, Nhật Bản nỗ lực vươn lên thành một cường quốc chính trị để xứng đáng với vị thế siêu cường kinh tế của mình.
0