25/05/2018, 09:52

Mối quan hệ tương hổ giữa các dinh dưỡng trong cơ thể

Theo quan niệm hiện nay, một khẩu phần hợp lý là: - Cung cấp đầy đủ năng lượng theo nhu cầu của cơ thể - Có đủ các chất dinh dưỡng cần thiết - Các chất dinh dưỡng ở tỷ lệ cân đối thích hợp Đã có nhiều nghiên ...

Theo quan niệm hiện nay, một khẩu phần hợp lý là:

- Cung cấp đầy đủ năng lượng theo nhu cầu của cơ thể

- Có đủ các chất dinh dưỡng cần thiết

- Các chất dinh dưỡng ở tỷ lệ cân đối thích hợp

Đã có nhiều nghiên cứu về xác định nhu cầu các chất dinh dưỡng một cách riêng rẽ nhưng càng ngày càng có nhiều công trình nhấn mạnh về mối tương quan giữa chúng với nhau và đề ra các yêu cầu về tính cân đối của khẩu phần. Để hiểu lý luận về dinh dưỡng cân đối, trước hết cần tìm hiểu mối quan hệ tương hổ một cách chặt chẽ giữa các thành phần dinh dưỡng trong cơ thể.

Trong cơ thể chuyển hoá các thành phần dinh dưỡng liên quan chặt chẽ với nhau và chỉ tiến hành bình thường khi khẩu phần đảm bảo cân đối. Sự thiếu một thành phần dinh dưỡng này có thể hạn chế sự hoạt động của thành phần dinh dưỡng kia và ngược lại sự thừa một thành phần dinh dưỡng nào đó có khi gây cản trở sử dụng của một hay nhiều thành phần dinh dưỡng khác.

Thiếu dinh dưỡng và ngon miệng

Tất cả các loại thiếu dinh dưỡng đặc hiệu (acid amin, vitamin, chất khoáng..) nói chung thường dẫn đến hiện tượng kém ăn, nghĩa là ăn không ngon miệng. Sự thiếu cân đối về chất của khẩu phần đã dẫn đến sự giới hạn về lượng thức ăn làm cho nhu cầu năng lượng không được thỏa mãn.

Glucid, lipid, protein là nguồn năng lượng nhưng để quá trình thoái hoá của chúng xảy ra bình thường đòi hỏi nhiều hệ thống men mà trong thành phần các men này có protein, các vitamin nhóm B và chất khoáng.

Năng lượng và protein

Nhu cầu năng lượng và nhu cầu protein có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Năng lượng ăn vào liên quan chặt chẽ với chất và lượng của protein trong khẩu phần hay nói cách khác khi nhu cầu protein không đảm bảo thì năng lượng cũng thiếu hụt.

Ngược lại năng lượng có thể tiết kiệm protein. Khi lượng protein của khẩu phần không thay đổi, cân bằng nitơ dương hay âm tùy theo năng lượng ăn vào.

Tính cân đối của các acid amin

Nhu cầu protein phụ thuộc vào chất lượng của nó, nghĩa là tuỳ theo sự cân đối của các acid amin trong khẩu phần chứ không phải số lượng tuyệt đối của chúng.

Nhu cầu mỗi acid amin cần thiết không thể tính theo số lượng tuyệt đối mà trong số lượng tương đối liên quan với các acid amin khác. Thừa một acid amin này hạ thấp sử dụng các acid amin khác và tạo nên sự thiếu hụt thứ phát ngay cả khi số lượng của chúng đầy đủ. "Protein" chuẩn là protein có tương quan acid amin cân đối nhất và do đó có hiệu quả sinh học cao nhất.

Phosphor, calci và vitamin D

Sự thoả mãn nhu cầu phosphor, calci phụ thuộc nhiều vào tỷ số Ca/P hơn là số lượng tuyệt đối của calci và phosphor ăn vào. Hàm lượng phosphor và calci trong khẩu phần ăn là yếu tố để đánh giá hiệu quả của vitamin D. Nhu cầu của vitamin D tùy theo tỷ lệ Ca/P trong khẩu phần vì nó trực tiếp tham gia vào điều hoà chuyển hoá phosphor, calci trong cơ thể.

Lipid và vitamin

Nhiều thí nghiệm cho thấy khi tăng lượng lipid trong khẩu phần để thực hiện chế độ ăn có năng lượng cao thì đòi hỏi phải xét lại nhu cầu nhiều vitamin.

Trong cơ thể vitamin E có tác dụng bảo vệ các lipid của ty thể và vi thể khỏi bị oxy hoá. Sự oxy hoá lipid trong các tổ chức tạo thành các peroxyde, các aldehyde.. những chất này gây độc đối với cơ thể và làm mất hoạt tính của một số men và vitamin.

Glucid và vitamin

Quá trình sử dụng glucid trong cơ thể để giải phóng năng lượng cần có sự tham gia của nhiều men mà trong thành phần của chúng có chứa vitamin: men dehydrogenase và coenzyme là nicotiamid adenin dinucleotid (NAD) trong đó có amid của acid nicotinic (PP), men decarboxylase mà coenzyme là thiamin pyrophosphate (B1).

Nhu cầu của vitamin liên quan tới lượng glucid trong khẩu phần ăn. Người ta thường tính tỷ lệ vitamin B1 ()/calori không do lipid. Để đề phòng bệnh Beri-beri tỷ lệ đó cần là ≥ 0.45

Protein và vitamin

Thiếu vitamin gây cản trở tích chưá riboflavin (B2) và làm giảm dự trữ vitamin B2 trong cơ thể. Mối quan hệ giữa sử dụng vitamin A và mức protein của khẩu phần cũng đang được chú ý. Khi khẩu phần ăn có 18 - 20% protein, khả năng tích lũy vitamin A ở gan cao nhất, nhưng khi tăng lượng protein lên tới 30 - 40% thì sử dụng vitamin A lại tăng lên. Hàm lượng protein cao trong khẩu phần gây giảm dự trữ vitamin A, do đó thường xuất hiện sớm các biểu hiện thiếu vitamin A. Ngược lại khẩu phần nghèo vitamin A thì biểu hiện thiếu vitamin A sẽ kéo dài.

Tình trạng thiếu protein cũng giữ vai trò quan trọng trong sinh học bệnh còi xương. Nhiều nghiên cứu cho thấy trong điều kiện thiếu protein vẫn có các biểu hiện thiếu vitamin D.

Protein trong khẩu phần còn ảnh hưởng đến vitamin C, vitamin PP và acid amin tryptophan. Khi thiếu protein các vitamin này dễ dàng ra khỏi cơ thể, không tham gia vào các quá trình chuyển hoá. Ngoài ra thiếu protein tạo điều kiện phát sinh bệnh pellagre, bệnh scorbut và bệnh thiếu đa sinh tố...

Quan hệ giữa các vitamin

Người ta đã chứng minh được rằng quan hệ khắng khít của hoạt động nhiều loại vitamin khiến cho thiếu một vitamin này có thể gây thiếu kèm theo một loại khác. Thiếu vitamin B gây xuất hiện triệu chứng thiếu acid pantothenic. Đối với nhiều loại thiếu vitamin nhóm B, Vitamin A có tác dụng bảo vệ rõ rệt.

Vitamin và chất khoáng

Vai trò của chất khoáng đối với hoạt động của các vitamin rất chặt chẽ và đa dạng. Chúng là những chất xúc tác, hoạt hoá hoặc ức chế các phản ứng của hệ thống men có chứa vitamin. Một số chất khoáng có thể là thành phần cần thiết trong nhân hoạt động của các men, như coban trong thành phần vitamin B12.

0