24/05/2018, 19:15

Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường .

Sự biến động của tất cả các sự vật hiện tượng đều có những nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hoạt động nhập khẩu cũng vậy, luôn luôn thay đổi tuỳ theo diễn biến của rình hình do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong ...

Sự biến động của tất cả các sự vật hiện tượng đều có những nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hoạt động nhập khẩu cũng vậy, luôn luôn thay đổi tuỳ theo diễn biến của rình hình do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định.

Đây là yếu tố mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu buộc phải nắm chắc và tuân theo một cách vô điều kiện bởi vì nó có thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền ở mỗi nước, sự thống nhất của quốc tế, nó bảo vệ lợi ích chung của các tầng lớp trong xã hội cũng như lợi ích chung của nước trên thương trường quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, bởi vậy nó chịu sự tác động của chính sách, chế độ luật pháp ở các quốc gia đó, đồng thời hoạt động nhập khẩu cũng phải tuân theo những qui định, luật pháp quốc tế chung. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong hoạt động nhập khẩu, do đó tạo nên sự tin tưởng cũng như hiệu quả cao trong hoạt động này.

Nhân tố này quyết định việc mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ một doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà tới tất cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung.

Sự biến đổi lớn trong tỉ trọng xuất khẩu và nhập khẩu, chẳng hạn, khi tỉ giá hối đoái của đồng tiền thuận lợi cho việc nhập khẩu thì nó lại bất lợi cho việc xuất khẩu và ngược lại. Tương tự tỉ suất ngoại tệ thay đổi giữa các mặt hàng cũng như phương án kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu.

Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu như là một chiếc cầu nối thông thương giữa thị trường hai nước, tạo ra sự phù hợp, gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại giữa chúng, phản ánh sự biến động của mỗi thị trường. Cụ thể như sự tồn đọng hàng hoá, giá cả, giảm nhu cầu về một mặt ở thị trường trong nước sẽ làm ngay lập tức lượng hàng nhập khẩu. Cũng như vậy, thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn các nhu cầu trên thị trường trong nước, sự biến động củ nó về khả năng cung cấp, về sản phẩm mới về sự đa dạng của hàng hoá dịch vụ cũng được phản ánh qua chiếc cầu nhập khẩu để tác động vào thị trường nội địa.

Sự phát triển của nền sản xuất, của những doanh nghiệp sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, do vậy làm giảm nhu cầu hàng nhập khẩu và nếu như sản xuất kém phát triển, không thể sản xuất được những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật sản xuất cao thì nhu cầu về hàng nhập khẩu tăng lên, do đó ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu.

Ngược lại sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài làm tăng khả năng của sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm mới, hấp dẫn phù hợp với nhu cầu, hiện đại, do vậy thúc đẩy hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên không phải là lúc nào sản xuất ở trong nước phát triển thì hoạt động nhập khẩu bị thu hẹp mà nhiều khi để tranh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh hoạt động nhập khẩu lại được khuyến khích phát triển. Trái lại để bảo vệ sản xuất trong nước khi nền sản xuất nước ngoài phát triển thì hoạt động nhập khẩu có thể bị thu hẹp và kiểm soát chặt chẽ.

Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động thương mại trong và ngoài nước của các doanh nghiệp thương mại quyết định đến sự chu chuyển, lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế hay giữa các nền kinh tế các nước khác, bởi vậy tạo thuận lợi cho đẩy nhanh công tác nhập khẩu. Mặt khác, do chủ thể của hoạt động nhập khẩu chính là những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nên sự phát triển của những doanh nghiệp này đồng nghĩa với sự thực hiện một cách có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong một nước mà các doanh nghiệp không được tự do phát triển, bị sự can thiệp quá sâu của Nhà nước thì hoạt động nhập khẩu cũng không thể phát huy được, không thể vươn mạnh ra nước ngoài tạo ra sự tụt hậu của nền kinh tế.

Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với công việc vận chuyển và thông tin liên lạc, vì nhờ có thông tin liên lạc hoạt động mà các nước cách xa nhau vẫn thông tin được với nhau để thoả thuận tiến hành hợp đồng một cách kịp thời. Do đó việc nghiên cứu áp dụng những phương tiện thông tin liên lạc vào giao thông vận tải là một nhân tố quyết định rất lớn đến sự phát triển của hoạt động nhập khẩu.

Thực tế cho thấy rằng sự phát triển của hệ thống thông tin như Fax, telex, DHL, VMS… đã đơn giản hoá các khâu công việc của hoạt động nhập khẩu rất nhiều, giảm bớt hàng loạt chi phí, nhanh gọn kịp thời, chính xác. Việc hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển bốc rỡ bảo quản… cũng đã góp phần làm cho quá trình nhập khẩu được nhanh chóng an toàn và hiệu quả.

Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh và hiện đại, có liên quan chặt chẽ tới các hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế dù lớn hay nhỏ ở bất cứ thành phần kinh tế nào bởi vai trò quan trọng của nó trong việc quản lý, cung cấp vốn, thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng, chính xác. Hoạt động nhập khẩu ngày nay sẽ không được thực hiện nếu như không có hệ thống ngân hàng. Dựa trên các mối quan hệ, uy tín, nghiệp vụ của mình, các ngân hàng đã đảm bảo được lợi ích của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu. Đồng thời với lòng tin của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu. Đồng thời với lòng tin của các ngân hàng, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay với khối lượng lớn, kịp thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt được những thời cơ hấp dẫn.

Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường đều có một môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh vừa tạo ra những tiền đề và điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh vừa có những tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, với các doanh nghiệp ngoại thương, môi trường kinh doanh rất quan trọng bởi kinh doanh thương mại quốc tế phức tạp và phong phú hơn rất nhiều so với kinh doanh trong nước. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm hai môi trường: môi trường vi mô (gồm các yếu tố khách hàng, tiềm năng và mục tiêu của doanh nghiệp, người cung ứng… hợp thành) và môi trường vĩ mô (gồm các nhân tố chính trị pháp luật, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ, văn hoá xã hội, môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng … hợp thành). Như vậy muốn thành công các doanh nghiệp phải nắm rõ được các nhân tố này.

Hiện nay Nhà nước chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, tự do buôn bán kinh doanh xuất nhập khẩu trong khuôn khổ pháp luật. Một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải cạnh tranh với các đơn vị kinh tế khác thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Chính vì thế luôn luôn có các cuộc cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp. Yếu tố này đặt các doanh nghiệp ngoại thương đứng trước vấn đề sống còn trong kinh doanh. Yừu tố cạnh tranh này buộc các doanh nghiệp phải nhạy bén linh hoạt với thị trường, nắm bắt được thời cơ. Khác với cơ chế cũ ngày nay các doanh nghiệp phải tự giao dịch, tìm nguồn hàng, đàm phán, ký kết và nơi tiêu thụ. Hơn nữa các nhân tố ngoài nước như cấm vận, hàng rào thuế quan, bảo hộ mậu dịch cũng như phong tục tập quán ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp.

Sự phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới làm đa dạng hoá các chủng loại hàng hoá, tạo ra nhiều hàng hoá mới cũng như sự hiện đại hoá của hệ thống thông tin liên lạc cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động nhập khẩu. Đây là nhân tố khách quan mà bản thân doanh nghiệp chỉ có thể nhận thức và có phương hướng kinh doanh phù hợp chứ không thể tự mình tác động làm biến đổi nhân tố này.

0