25/05/2017, 00:53

Bình giảng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu – Văn mẫu lớp 11

Đánh giá bài viết Bình giảng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên văn THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm Hà Nội Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tố chức yêu nước. Năm 1905 ông ...

Đánh giá bài viết Bình giảng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên văn THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm Hà Nội Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tố chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, Nhật Bàn đế cầu nguyện viện ...

Bình giảng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên văn THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm Hà Nội

Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tố chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, Nhật Bàn đế cầu nguyện viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại đồng chí bài thơ Lưu biệt khi xuất dương (Xuất dương lưu biệt.) được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế. quyết tám hăm hở, và những ý nghĩa cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.

Hai câu đề là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:

Sinh vi nam tử yếu hi kì

 Khẳng hứa càng  khôn tự chuyển di.

Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống mong muốn làm nên điều lạ (yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tẩm thường. Không thé sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời  một cách vô  vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ và tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoa chuyển trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ khác:

Dang tay ôm chặt bổ kình tế,

Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Gắn câu  thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khí anh hùng cùa nhà thi sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốu làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cố:

Mỗi phạn bất vong guy trúc bạch,

Lập thân tối hạ thị văn chương.

(Tùy viẽn thi thoại – Viên Mai)

(Bữa bữa những mong ghi sử sách,

Lập thân xoàng  nhất ây văn chương).

Đấng nam nhi muôn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sùi sục: “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi it, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nơi người xưa chịu chết dể thành đạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt dẫm cả giấy…” (Ngục trung thư).

Phần thực, ý thơ mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xà hội và trong lịch sử:

Ư bách nièn trung tu hữu ngã,

Khởi thiên tải hậu cách vô thủy.

Ngã là ta, tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đô'i nhau, lấy cái phủ định đế làm nổi bật điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thế hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”. (Trần Quốc Tuấn).

Nhân vinh tự cổ thủy vô tử

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

(Văn Thiên Tường)

Lấy cái hữu hạn – bách niên – của một đời người đối với cái vô hạn – thiên tài – của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc. hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế. trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và hiểm nguy, ông vẫn bất khuất, lạc quan:

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!

Phần luận tác giả nói về sống và chết, nói về công danh.

Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xé thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử nghiền kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của thánh hiền liệu còn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước nhà.

Non sông đã chết, sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đâu học của hoài.

Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lôi học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong bài Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927. Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:

Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi

Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần

Đừng ham chơi, dừng ham mặc, ham ăn

Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa

Xối máu nóng rủa vết nhơ nô lệ…

Sống như thế là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ.

Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bav bổng đượm sắc lãng mạn:

Nguyệt trục trường phong Đông hải khử,

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, khơi gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bác ái quốc vì thâm đượm cảm xúc, sôi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: Trường phong – Ngọn gió dài. Thiên trùng bạch lãng – ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ nguyện trục (mong đuổi theo) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Hai thanh trắc cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu. Ớ đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thông nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã nói ở hai câu kết.

Lưu biệt khi xuất dương là bài thơ tuyệt tác đầy tầm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tường anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.

Bình giảng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu – Bài làm 2

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thời kì nào cũng xuất hiện những đấng anh hùng làm rạng danh sông núi. Có người anh hùng lẫy lừng chiến công. Có người anh hùng “thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Những anh hùng ấy được văn chương ghi tạc hay tự mình bày tỏ chí khí. Bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu là một cách bày tỏ thật mạnh mẽ chí khí của đấng anh hùng trong hoàn cảnh đầy bi kịch của đất nước ta ở những thập niên đầu của thế kỉ hai mươi.

Phan Bội Châu xuất hiện trên vũ đài chính trị vào lúc ở nước ta những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp đã lần lượt thất bại. Con đường cứu nước đứng trước viễn cảnh đen tối. Ông muốn tìm kiếm một hướng đi mới. Sau khi thành lập Hội Duy tân (1905), Phan Bội Châu ra nước ngoài, mở đầu phong trào Đông du. Xuất dương lưu biệt được sáng tác trong buổi nhà thơ chia tay với các đồng chí để lên đường, nhưng bài thơ lại không phải là những lời bịn rịn, lưu luyến thường tình. Trái lại, bài thơ thể hiện ý chí, lòng quyết tâm vì sự nghiệp lớn lao của một nhà cách mạng:

Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.

Lập nên sự nghiệp là khát vọng của những bậc tài danh trong lịch sử. Thời nào, khát vọng ấy cũng được thể hiện. Chúng ta từng có hoài bão của Phạm Ngũ Lão:

Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quẩn tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Và, cách Phan Bội Châu trước đó không xa, là chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ:

Thông minh nhất nam tử,
Yếu vi thiên hạ kì.

(Người con trai thông minh phải làm việc kì lạ cho thiên hạ).

Khẩu khí có lẽ giống nhau, nhưng ý tứ mồi thời đã có khác. Phạm Ngũ Lão thời Trần cảm thấy hỗ thẹn Gia Cát tiên sinh vì chưa trả xong nợ công danh. Nguyễn Công Trứ quả quyết đà là người tài trai thì phải làm nên những việc kì lạ cho thiên hạ. Dĩ nhiên, cái “công danh” hay việc “kì lạ” mà họ Phạm và họ Nguyễn từng nêu không phải là chuyện cá nhân, tất thảy đều mang ý nghĩa cao cả. Song, dù sao đi nữa cả hai ông đều nói đến sự phấn đấu của đấng nam nhi nhưng không vượt ra ngoài “con Tạo”. Có lẽ, thời Phạm Ngũ Lão, “thiên định” đang rất phù hợp với lòng người. Thời Nguyễn Công Trứ tuy có suy vi, xáo trộn, song vẫn còn đang ở trong bối cảnh chung ấy. Nhưng đến Phan Bội Châu, chuyện kinh thiên động địa đã xảy ra: non sông đất nước lần lượt rơi vào tay giặc, những người “thừa mệnh trời” vẫn còn ở đó nhưng bất lực, yếu đuối. Vì thế, chuyện “kì lạ” mà Phan Sào Nam muốn làm không phải là tôn vinh hay duy trì một trật tự đã có. Ông khao khát làm việc lớn hơn nhiều:

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.

Càn khôn là trời đất nước, cũng là Tạo hóa, thời thế. Nên nhớ, Phan Bội Châu xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, từng đỗ đầu xứ nên ông hiểu rõ cái gọi là “thiên mệnh”, tức là sự sắp đặt sẵn của con Tạo mà con người không thể thay đổi. Song, đến lúc xuất dương, nhà thơ nói điều ngược lại: kẻ nam nhi phải làm những điều lạ chớ để Tạo hóa tự thay đổi. Bởi vậy, chí nam nhi của Phan tiên sinh mang khẩu khí của bậc trượng phu thời trước, những tư tưởng đã hoàn toàn khác trước. Con người không cam chịu bất kì một sự sắp đặt có sẵn nào mà tự thân mình phải xoay chuyển, tạo ra sự sắp đặt mới!

Hai câu đề đã nói khá rõ chí nam nhi của Phan Bội Châu. Soi rọi vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước Việt Nam thời kì đó sẽ thấy sự mãnh liệt của nó. Câu thơ có thể biến thành một khẩu hiệu, một lời tuyên ngôn mới của một thế hệ, một giai đoạn lịch sử.

Hai câu thực bày tỏ niềm tin tưởng của nhà thơ vào tiền đồ của đất nước:

Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.

Có người đã bình một ý của câu thơ này như sau: “Cụm từ “trăm năm này (hiện nay) phải có ta” đối lập cụm từ “ngàn năm sau không có ai” – câu trên khẳng định, câu dưới phủ định – thể hiện một ý thức cao cả và một nỗi lo, một dự cảm xa rộng của nhà cách mạng trẻ tuổi đối với hiện trạng đất nước lúc bấy giờ”. Thực ra, ở đây chẳng có câu phủ định nào cả. “Trong khoảng trăm năm cần có tớ / Sau này muôn thuở há không ai” là sự khẳng định một nhân cách, một tài năng, một bản ngã, dĩ nhiễn sắc thái có phần cường điệu để bày tỏ thật triệt để khát vọng của mình chứ không phải đề cao cá nhân. Vì thế, câu thơ kế tiếp cũng là một lời khẳng định dưới hình thức câu hỏi. Phan Bội Châu là bậc trượng phu luôn hiểu rõ và đề cao lịch sử, truyền thống của dân tộc. Đồng thời, ông cũng là người lại luôn có niềm tin vào những thế hệ mới. Chỉ thấy Phan Bội Châu đề cao chí khí của mình là hạ thấp một nhân cách kì vĩ và không hiểu vì sao chính ông đã luôn tìm cách đưa những người trẻ tuổi ra nước ngoài để học tập đặng trở về cứu nước.

Để thực hiện được hoài bão của mình, Phan Bội Châu phải kiếm tìm con đường cứu nước. Ở vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước thời đó, Phan Bội Châu đã nhìn thấy trước sự thất bại nếu đứng lên khởi nghĩa khi lực lượng quá yếu so với kẻ thù. Khoa cử là con đường lập thân của biết bao đấng nam nhi ngày trước bây giờ đã không còn phù hợp, vì cả triều đình đă trở thành bù nhìn cho ngoại bang. Vì thế, hai câu luận thực chất là sự cắt nghĩa về tính tất yếu của cuộc “lưu biệt”:

Giang sơn tử hi sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài).

Non sông đất nước một khi đã rơi vào tay giặc coi như đã mất. Sống cam chịu, nhục nhã trong kiếp nô lệ thực chất là đã chết. “Hiền thánh” là những người kì tài, xuất chúng, nhưng cũng có nghĩa là các bậc khai sáng ra một hệ tư tưởng (Nho giáo) không còn (và bản thân hệ tư tưởng ấy không còn cơ sở hiện thực) thì việc học và xa hơn là sự lập thân bằng con đường cử nghiệp liệu có ích gì? Luận bàn về lý do mình phải ra đi như vậy thật triệt để. Có thể nói, Phan Bội Châu đã thực sự phủ định hệ tư tưởng mà mình vốn đã từng tiếp thu, Vì thế không thể xem chí làm trai của Phan Bội Châu vẫn còn nằm trong phạm trù ý thức hệ Nho gia như cố người đã từng đánh giá.

Hai câu kết là sự thể hiện khát vọng được biến hoài bão của đấng nam nhi thành hiện thực:

Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).

Con đường phía trước không bằng phẳng. Trái lại, đầy phong ba bão tố. Nhưng đấy mới chính là chỗ để đấng nam nhi thể hiên ý chí, khát vọng của mình.

Cuộc đời Phan Bội Châu như ông từng nhận xét, trăm lần thất bại, không một lần thành công, song ông đã sống đúng với lý tưởng, hoài bão của mình. Nhà chí sĩ không thành công trong sự nghiệp mong được cứu nước, cứu dân, nhưng hình bóng, nhân cách, tâm hồn ông vẫn luôn là một biểu tượng đẹp đẽ và hào hùng cho những thế hệ trẻ Việt Nam. Và cũng chính nhân cách, tâm hồn ấy, khi được thể hiện bằng thơ, dù trong lớp áo cũ kĩ của thể thơ thất ngôn luật Đường, đã vang lên mạnh mẽ, như khúc tráng ca, lời ly biệt trở thành tiếng thúc giục lên đường vì non sông đất nước.

Bài viết liên quan

0