25/05/2017, 00:53

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Văn mẫu lớp 11

Đánh giá bài viết Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Hòa Bình Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm , ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả ...

Đánh giá bài viết Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Hòa Bình Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm , ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả , thầm lặng chịu đựng và giàu lòng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn ...

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Hòa Bình

Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm , ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả , thầm lặng chịu đựng và giàu lòng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn nhạy cảm của ông, cũng như điểm nhìn của tác giả. Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong chùm truyện ngắn đặc sắc của ông, những hình ảnh chi tiết trong truyện giống như một dòng sông cuốn chúng ta vào đó, và cảm nhận được những gì đang xảy ra với câu chuyện của tác giả.mọi thứ diễn ra thật nhẹ nhàng mà cũng mãnh liệt xoáy sâu vào suy nghĩ và cách cảm nhận tác phẩm của từng độc giả

Nhà văn là những người nói hộ cho hiện thực cũng có khi họ thi vị hóa cho những gì đang xảy ra xung quanh họ, từ những điều đơn giản nhất cho tới những thứ mà con người ta hay nghĩ đến,văn thơ đóng một vai trò không thể thiếu. Với ngòi bút tài hoa giàu lòng trắc ẩn, tác phẩm Hai đứa trẻ ra đời mang ý nghĩa nhân văn. Những con người xuất hiện trong tác phẩm mang một cuộc sống cơ cực nghèo khổ, cái nghèo bám lấy họ và họ không có lối thoát. Họ mong muốn có một cuộc sống sung túc , tuy không giàu có những làm sao cho cuộc sống mưu sinh đỡ vất vả. Qua đây, Thạch Lam cho ta nhìn nhận những sự khó khăn vất vả mà những con người nơi đây đang phải chống chịu. Những chi tiết trong tác phẩm tuy là miêu tả về hiện thực nhưng lại không thiếu những chi tiết sống động,lãng mạn.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh chiều tà,hình ảnh xuất hiện trong hầu hết các tác phẩm, là chính khoảnh khắc mà khiến con người ta nhận ra nỗi buồn nhiều nhất. Những âm thanh quen thuộc, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, và khung cảnh xung quanh  tác động đến tâm trạng của mỗi người.Cảnh mở đầu của tác phẩm chính là một buổi chiều tàn,bầu trời gồm những áng mây hồng, như được nhuộm một màu sắc đỏ đỏ mang một cảm giác ưu buồn và cô đơn. Thông qua sự miêu tả của một ngày tàn của Thạch Lam, thì phần nào cũng giúp người đọc nhận  ra đây là một buổi chiều buồn bã và chán nản. Thời gian bắt đầu chuyển động dần tới đêm,nhưng hình ảnh chiều tàn và hình ảnh chợ chiều tàn hiện ra càng thể hiện sự nghèo khổ và hiu hắt ở nơi đây. Những con người cân mẫn , luôn mong muốn cuộc sống của họ đầy đủ hơn,cuộc sống thật vất vả và đầy khổ cực bươn chải. Hình ảnh những con người xuất hiện trong “ Hai đứa trẻ” tuy xuất hiện không nhiều nhưng mang một nét riêng biệt,nổi bật lên đó là hình ảnh của cô gái Liên, dù còn nhỏ nhưng tâm hồn và suy nghĩ của cô thực sự như là một thiếu nữ.

Cuộc sống ở đây chìm ngập trong bóng tối và tẻ nhạt, họ sống cùng sự buồn chán và tuyệt vọng,đối với họ, họ đang sống cuộc sống tạm ,một cuộc sống tĩnh lặng và không biết ngày mai sẽ như thế nào. Sau khi chợ chiều tàn, mọi người đều đi về và tiếng ồn ào cũng mất, như dấu hiệu của sự tĩnh lặng của đêm tối bắt đầu. Những rác rưởi, vỏ bưởi và hình ảnh những đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ còn sót lại chỉ là những thanh tre thanh nứa…

Đêm bắt đầu buông xuống,  cuộc sống của một đêm ở phố huyện nghèo lại bắt đầu.Nhân vật Liên trong tác phẩm sửa soạn lại hàng trên chiếc chõng tre,mẹ con chị tí, sáng mò cua bắt ốc,tối lại mở thêm hàng nước để kiếm thêm thu nhập. Quán hàng phở cũng bắt đầu sửa soạn còn hai cha con nhà bác Sẩm thì chưa hát chưa kéo đàn vì vẫn chưa có khách nghe. Đứa con thì nhoài ra nghịch đất cát ở bên ngoài. Mọi thứ thật đơn điệu, không có một chút niềm vui của họ, chắc có lẽ họ nghĩ và hi vọng rằng, hàng quán đắt khách kiếm thêm được tiền quả là một niềm vui một niềm hạnh phúc và mang lại một cuộc sống no đủ hơn. Hình ảnh cụ Thi điên đắm chìm vào men rượu, bước đi lảo đảo, cụ sống một cuộc sống k còn tự chủ của bản thân, có hay chăng cụ tìm đến rượu để quên lãng đi tất cả đau khổ và chìm vào đó để tìm thú vui của mình.

Những con người nơi phố Huyện này, họ sống, sinh ra và lớn lên ở nơi đây. Đối với họ thì không khí im lặng, sự cô đơn và buồn chán. Nhưng với chị em Liên thì có lẽ vẫn chưa quen với sự tẻ nhạt buồn chán nơi đây,bởi hoàn cảnh đưa đẩy, bố của chị em Liên thất nghiệp phải về phố huyện để mưu sinh. Hai chị em phải nhận thức ra được điều này và làm quen dần với cuộc sống nơi đây.Hằng ngày chị em Liên và An, không những ai đứa trẻ này mà hầu hết tất cà những kiếp người nơi phố huyện điều trông chờ một thứ rất quan trọng vào môi buổi tối. Không gì khác, đó chính là thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu. Thứ ánh sáng ấy cũng một phần soi đến phố Huyện và giúp cho khu phố trở nên có ánh sáng thêm một chút, không những thế còn có những thứ âm thanh cười nói của những người hành khách trên tàu làm cho không khí im lặng của khi phố huyện có một chút thay đổi ngoài những ánh sáng tẻ nhạt và không đủ sáng như thường ngày. Những âm thanh trên đoàn tàu giúp cho chị em Liên và An gợi nhớ đến những tháng ngày ở Hà Nội,hai chị em được dẫn đi chơi,được sống một cuộc sống tươi đẹp ở chốn thành thị, ngươi đi qua lại tấp nập và được uống với những cốc nước xanh đỏ.

Ngoài ra, thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu ấy đã giúp cho những kiếp người nơi phố Huyện một phần nào đó thức tỉnh, họ dám mơ ước đến những cuộc sống ấm no và hạnh phúc, mong muốn một điều gì đó thật tốt đẹp và ý nghĩa hơn, muốn những gì mà họ khát khao và cháy bỏng bấy lai nay điều thành sự thật, chứ không phải là một thứ phù du mà chờ đợi mỏi mòn.

Những ước mơ của họ chỉ chợt lóe lên khi đoàn tàu chạy qua, cũng có khi có có ước mơ nhưng chỉ khi đoàn tàu chạy qua họ mới cảm thấy những mong muốn của họ mới trở nên lấp lánh và có hi vọng hơn. Hai đứa trẻ, một tác phẩm lãng mạn, xúc động và đầy ý nghĩa. Những kiếp người nơi phố Huyện, họ luôn là những con người mang một cuộc sống đáng thương nhưng đầy sự khát khao và cháy bỏng nhưng thật sự, những điều mà khát khao cháy bỏng đo thực ra chỉ là sự mong manh và huyền ảo.

Qua tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn thể hiện sự khát khao to lớn của một đời người,một số phận nghèo khổ muốn vươn tới một cuộc sống tốt đẹp tuy còn khó khăn và lắm chật vật. Tài năng của Thạch Lam thông qua đó mà được bộc lô,đặc biệt là sự tinh tế tròn tả cảnh và phân tích diễn biến tâm lí nhân vật khiến truyện đi vào lòng người một cách tự nhiên nhất.

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 2

Trong nhóm tự lực văn đoàn Thạch Lam sống một cuộc đời ngắn ngủi nhất, viết ít nhất nhưng tác phẩm của ông sống mãi với thời gian. Truyện ngắn Thạch Lam dù trải qua bao khắc nghiệt vẫn giữ nguyên giá trị và được nhiều bạn đọc tìm đến với một niềm say mê trân trọng. Hai đứa trẻ in trong tập nắng trong vườn(1938) sức hấp dẫn của truyện không chỉ ở nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, ở tấm lòng nhân hậu mênh mang ở giọng văn lắng đọng nhẹ nhàng mà đặc biệt còn ở ngòi bút khắc họa bức tranh phố huyện nghèo và tâm trạng của Liên.

Lấy ngày tàn làm nền và bóng tối làm gam màu chủ đạo, Thạch Lam đã khắc họa một bức tranh phố huyện nghèo. Câu chuyện được mở ra trong giờ khắc ngày tàn. Tiếng trống thu không điểm từng tiếng một trên cái chòi huyện nghèo, tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve, mọi âm thanh dường như cố nhỏ lại lịm dần đi thưa thớt. Âm thanh ấy hay chính là dấu vết còn lại của ngày tàn, nó gọi thời gian gọi buổi chiều bằng những nhịp chậm rãi. Phải chăng đó còn là nhịp đời trôi tù đọng của phố huyện nơi đây.

Điểm nhìn cho âm thanh xa vắng là phương tây đỏ rực như lửa cháy, áng mây hồng và những dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời. Hình ảnh ấy như báo trước một sự rơi rụng của ngày tàn sắp đến.

Những câu văn êm dịu với nhịp điệu chậm rãi vừa giàu hình ảnh nhạc điệu vừa uyển chuyển tinh tế đã khắc họa một bức hạ đồng quê quen thuộc nhưng phảng phất một nỗi buồn bâng khuâng, man mác. Mỗi câu văn nhu một nét đơn sơ, không câu kì kiểu các đã gợi dậy được cái hồn của cảnh vật, cái thần thái của thiên nhiên.

Không chỉ đặt nhân vật vào những khoảng thời gian nhất định Thạch Lam còn đặt nhân vật của mình vào những không gian nhất định. Đó là không gian của một phiên chợ tàn ở một miền đời bị lãng quên. Chỉ bằng một vài nét phác họa chợ chiều hiện lên thật tàn tạ thê lương: nào là rác rưởi vỏ bưởi vỏ thị. Những người gánh hàng rong còn nán lại nói chuyện gì đó xong họ mới về. Trên mặt đất những tia sáng làm cho những hạt cát lấp lánh, hòn đá nào bên sáng bên tối làm nên một bức tranh tả cảnh tàn tạ của phiên chợ chiều. Tất cả đều đi vao bóng tối đến nhường lại cho khu phố một cảm giác lãnh đạm hơn bao giờ hết. Thế rồi trên cái nền ấy những đứa trẻ con hiện lên thật đáng thương. Đó là mấy đứa trẻ nghèo đi nhặt nhạnh những thứ còn dùng được của buổi chợ để lại. chúng nhặt những thanh nứa thanh tre. Liên thương xót nhưng hoàn cảnh của chị Liên cũng chẳng hơn chúng bao nhiêu. Trước cảnh tượng ấy không hiểu sao “ Liên thấy lòng mình man mác buồn”. Có lẽ cuộc sống đã biến cô từ một đứa trẻ vô tư thành một đứa trẻ suy tư. Chị em Liên ngồi kê chõng ra ngoài mà ngắm khu phố chuẩn bị lên đèn.

Có thể nói khung cảnh khu phố hiện lên vừa có cái gì đó thi vị, nên thơ đó là cái mộc mạc của khu phố huyện nhưng cũng tiêu điều và vắng vẻ. Nó gợi lên một miền đời trôi tù đọng với những hình ảnh tàn tạ đến thê lương, sự sống nơi đây như rơi rụng khi chiều tàn.

Chiều khép lại để nhường cho bóng tối của ban đêm, Thạch Lam diễn tả thật thi vị cái đêm mùa hạ ấy. Đó là một đêm màu hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Chị em Liên hãy còn ngồi trên chõng để nhìn ban đêm. Những cánh hoa bàng khẽ rụng lên tóc liên và xuống chõng thật thi vị. thế nhưng trước sự thi vị ấy lại có một sự buồn không hề nhỏ. Tác giả xây dựng lên sự tương quan giữa ánh sáng và bóng tối để cho thấy cuộc sống nơi đây khi đêm về. Ánh sáng nơi đây nào là khe sáng rồi lại “vòm trời hàng ngàn ngôi sao đua nhau lấp lánh” chị em liên nhìn lên như thấy cả ông Thần Nông trên đó. Vệt sáng của những con đom đóm. Thế rồi cả chấm sáng của lân tinh thoắt ẩn thoắt hiện, chấm lửa nhỏ, hột sáng từ ngọn đen Liên, quầng sáng qua ngọn đèn hoa kì leo lét. Tất cả những ánh sáng ấy đều được nói đến rất nhiều với mật độ dày đặc nhưng đó chỉ là những hột, những khe ánh sáng mà thôi. Nó không thể nào xua đi bóng tối của buổi ấy, trong khi ấy bóng tối được tác giả chỉ dành cho mấy câu thôi nhưng nó đã lấn át hết những anh sáng kia. Đó là đường phố và những hình ảnh đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối “ Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, tất cả các con ngõ vào làng”. Có thể nói Thạch Lam đã dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối. Sự có mặt của ánh sáng không xua được bóng tối trái lại nó còn làm nổ bật óng tối. Sự tương phản ấy hay chính là biểu tượng cho những con người nơi đây khi sống kiếp người vô danh dưới màn đêm của xã hội thực dân phong kiến.

Trên nền bóng đêm ấy những cư dân kiếm sống ban đêm hiện lên và bắt đầu cuộc sống ban đêm của mình. Riêng chị em Liên thì được mẹ giao cho cái quán nhỏ ấy bán mấy thứ lặt vặt để kiếm thêm. Và xuất hiện đầu tiên trong bóng đêm ấy là mẹ con chị Tí. Mẹ con chị ấy ngày thì mò cua bắt ốc tối đến thì bán quán nước đến tận đêm khuya. Hai mẹ con chị chẳng bán được là bao nhưng đêm nào cũng dọn cũng bán đến tận đêm khuya mới thôi. Tiếp theo là bác phở Siêu, nghề của bác lương khá cao nhưng lại có nguy cơ đáng sợ nhất. Vì ở đây phở bác Siêu là một món quà xa xỉ nhất. Góp mặt vào những cư dân sống trong bóng tối đó là gia đình bác Sẩm. Cả gia tài nhà bác chỉ có manh chiếu rách và một cái thau sắt đã lang ben. Bác chưa hát vì chưa có ai nghe, đứa con thì lăn ra đất nghịch cát, thỉnh thoảng bác góp một tiếng nhạc bàn bật trong đêm. Không thể quên một nhân vật nữa đó là bà cụ Thi điên nghiện rượu. chiều nào cụ cũng đến nhà Liên mua rượu uống rồi cười khanh khách bước vào bóng tối với dáng vẻ lảo đảo. Tất cả những con người ấy hiện lên thật lam lũ vất vả. Trong đêm tối ấy họ vẫn mong chờ một điều gì đó tươi sáng hơn trong cuộc đời mình.

Thạch Lam không dùng một từ nào để miêu tả chân dung họ, không ai có một khuôn mặt một hình dáng, họ giống như một diễn viên trên sân khấu cuộc đời có thể đổi vai cho nhau nhưng không thể đổi phận cho nhau được. Và trong bóng tối tần ấy con người sống và hoạt động, có phải họ đang sống không hay là họ đang cầm cự sống?.

Tuy nhiên họ không mất niềm tin vào cuộc sống mà vẫn hi vọng một cuộc sống tươi sáng hơn. Đó là khoảnh khắc mà tất cả họ đều đang rất mong chờ- một chuyến tàu đêm đến. họ mong chờ vì điều gì?. Điều gì làm cho họ mong chờ đến như vậy?, nó khiến An dẫu buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố thức để đợi tàu đến. Cảnh tàu đến cả phố huyện như bừng sáng ánh sáng ấy phát ra từ những toa hạng sáng trọng nhất. “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre. ” Có thể nói chuyến tàu đêm đã mang lại ánh sáng cho phố huyện nơi đây. Thứ ánh sánh không hề bình thường mà nó là thứ ánh sáng thắp sáng niềm tin con người về một tương lai tươi sáng hơn.

Đối với những nhân vật kia thì họ mong tàu đến với mong ước là kiếm được thêm tiền khi tàu nghỉ và khách xuống. Còn đối với chị em Liên thì khác, liên không mong đợi bán thêm điều gì mà cô chỉ muốn ngắm đoàn tàu. Bởi vì nó là chuyến tàu từ Hà Nội về, nó giúp cô nhớ lại những ngày tháng khi gia đình còn giàu có, hai chị em Liên được bố dẫn đi bờ hồ ăn những que kem xanh đỏ. Có thể nói con tàu như một kí ức đẹp của Hà Nội trong hai chị em. Không những thế hai chị em cũng giống như những người dân nơi đây mơ ước một tương lai thật sự tươi sáng hơn.

Như vậy có thể thấy truyện ngắn Hai đứa trẻ đã mang đến cho chúng ta bức tranh toàn cảnh về cuộc sống của những người dân dưới chệ độ thực dân phong kiến. chính cái xã hội ấy đã làm cho những con người ấy trở nên khốn khổ vất vả. Cuộc sống đối với họ giống như đang cầm cự vậy. biết rằng không ai mua nhưng vẫn cứ dọn ra và mong chờ. Có lẽ tác giả đã mang đến cho chúng ta những suy nghĩ trăn trở đối với những kiếp người ấy.

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 3

Nhiều truyện ngắn của Thạch Lam là những hồi ức và kỉ niệm, nhất là những kỉ niệm thời thơ ấu. Phân tâm học hiện đại coi tuổi thơ là vương quốc của mọi nguyên nhân. Chúng ta không xem tuổi thơ là tất cả, là nguyên nhân quyết định quá trình phát triển sau này của tính cách nhà văn. Nhưng rõ ràng là qua sự chọn lọc và đào thải của thời gian, những kỉ niệm, những cảm giác từ tuổi thơ ấu còn lại đến bây giờ phải là những gì thật sự lắng đọng, mạnh mẽ và sâu sắc đến mức có thế đi mãi với ta trong suốt cuộc đời. Thời gian như một cái bình lọc kỳ diệu, nó chí để lại trong tâm hồn đa cảm và tinh tế của Thạch Lam những chi tiết điển hình, những cảm giác sâu lắng, những ấn tượng không thể phai mờ. Truyện ngắn viết về kỷ niệm ấu thơ cửa Thạch Lam làm ta xúc động chính là vì như thế. Những kỉ niệm về cái phố huyện cẩm Giàng bên cạnh đường xe lửa Hà Nội – Hải Phòng với xóm chợ của những người dân nghèo là chất liệu của ba truyện ngắn Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trễ.

Cả một thời ấu thơ, Thạch Lam sống gần gũi bên những người mẹ nghèo lam lũ và đông con như mẹ Lê, mẹ Đối, những người dân quê ở Hà Nam, Phủ Lý vì bị lụt lội, đói kém nôn phải tha phương cầu thực, kéo nhau đến kiếm ăn ở phố huyện miền trung du. Gia đình Thạch Lam đã có lúc lâm vào cảnh túng quẫn sau khi người cha mất Ở sầm Nưa. Bà mẹ tần tảo buôn bán nuôi bảy con Ở cái phố huyện cẩm Giàng (Hải Dương); cái không gian buồn tẻ, quạnh hiu của phố huyện sau này xuất hiện tràn đầy trong các truyện ngắn của Thạch Lam và Nhất Linh với những mái tranh xơ xác, tường đắp bằng đất, những quán chợ vắng lặng đứng chơ vơ trong gió rét chiều đông. Trong các truyện ngắn, Thạch Lam viết về những người mẹ nghèo và các em bé ở xóm chợ đó với một niềm cảm thông chân thành, man mác. Cuộc đời thầm lặng của họ bị chìm vào trong “bóng tôi uât ức nhẫn nại của dời thôn quê dưới mái lá nát hay những đêm sâu điểm trống huyện” (Thế Lữ) (Thế Lữ, Tính cách tạo tác của Thạch Lam. Thanh Nghị số 39 ngày 16-6-1943)

“Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gi có the dừng dược của các người bán hàng để lại… Trời nhá nhem tối, bấy giờ hai chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ di ra: chị Tí mẹ nó theo sau… Ngày, chị di mò cua bát tép, tối đèn chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch. Tôi hết cả, con dường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngỏ vào làng lại sẫm đen hơn nữa… Tất cá phố xà trong huyện bây giờ đều thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí. Thêm dược một gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe… Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường. Chừng ấy người trong bóng tối mong dợi cho sự sống nghèo khổ hàng ngày”.

Trong truyện ngắn của Thạch Lam, sự cảm thông chân thành đôi với những người dân quê nghèo khô thường quyện lẫn với tình cảm đất nước, quê hương với sự chắt chiu những màu sắc và hương vị dân tộc. Thạch Lam có biệt tài miêu tả những đường nét, màu sắc và mùi vị của quê hương: từ mùi quen của đất màu, mùi bèo ở dưới ao, mùa rạ ẩm ướt và mùi phân trâu nồng ấm đến tiếng lá tre khô xao xác, tiếng gió thổi qua đồng trống những buôi chiều mùa đông rét mướt, tiêng trông thu không của huyện đường bị nhòe đi vào bóng tôi của một vùng quê mênh mông… Trong truyện Hai đứa trẻ, khi bóng hoàng hôn ngập đầy dần trong đôi mắt Liên thì cái buồn của buổi chiều tĩnh lặng cũng man mác hòa vào tâm hồn ngáy thơ cùa cô bé. Và từ phiên chợ chiều họp giữa phô đã vẩn một mùi âm bổc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, bã mía quen thuộc quá, “khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”.

Thạch Lam viết truyện ngắn với một nghệ thuật tinh tế, nhất là việc sử dụng sự tương phản và hài hòa giữa các âm thanh, giữa các vùng ánh sáng. Cả một phố huyện chìm sâu vào bóng tôi, chỉ còn một vài chấm sáng lù mù quen thuộc xung quanh ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa của một cửa hàng tạp hóa. Trong cái cảnh chìm chìm nhạt nhạt và vắng lặng đó, đêm nào cũng có một đoàn tàu đi qua mang theo những luồng ánh sáng mạnh quét vào hai bên và tiêng ồn ào làm xao động cả một vùng quê yên tĩnh. Và đêm nào chị em Liên cũng cố thức để đón chuyến tàu 9 giờ ở Hà Nội về đi qua phô huyện Câm Giàng đã để lại nhiều kỉ niệm vui buồn trong thời thơ ấu của Thạch Lam. Ta hãy nghe bà Nguyễn Thị Thế kể lại: “Thời kỳ tôi mong ngóng nhất là kỳ nghỉ hè vi lúc đó các anh tôi, người Hà Nội, kẻ Hái Dương đều trở về quê. Ngày bãi trường, hai chị em tôi dắt nhau ra ga từ sáng sớm. Đoàn tàu còn xa đã thấy hai anh đứng ở cửa toa bên rương quẩn áo. Bao giờ tôi và Vinh cũng bỡ ngỡ và hơi sợ hãi lúc đầu vì sau một niên học, các anh thường lớn lên nhiều và có vẻ nghiêm trang như người lớn” (Nguyễn Thị Thê" – Người em thứ sáu – Văn (Sài gòn) số 36, ra ngày 15-6-1965. Nguyễn Tường Vinh là tên Thạch Lam hồi còn bé, sau đổi là Nguyễn Tường Lân). Lại có thời kỳ bà mẹ nâu thuốc phiện lậu nên mấy anh em Thạch Lam phải thay phiên nhau canh chừng bọn Tây đoan mỗi khi có đoàn tàu đến. Có một lần, đoàn tàu đỗ ở ga vào phiên canh cùa Thạch Lam “Chú đứng ở sân ga ngó một lượt, không thấy Tây đoan xuống, thê là chú yên chí lên đầu đoàn xe, nằm dài ra ngắm đầu tàu. Trong khi Tây đoan xuống ngắm các cơ phận của đầu máy” (Thế Uyên – Nhât Linh trong dĩ vãng một người trẻ tuổi. Văn, số 14, ngày 15-7- 1964). Đoàn tàu đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn thơ ngây và ít nhiều mơ mộng của Thạch Lam. Nhưng ở đây, trong truyện Hai đứa trẻ, việc chờ đợi đoàn tàu đêm trở về mang một ý nghĩa khác. Không phải để đón người thân đi học xa về nghỉ hè, không phải đê canh hàng, mà là một nhu cầu bức thiết về tinh thần của hai em bé, muôn trong chốc lát được thoát ra khỏi cuộc đời tù túng, thầm lặng như những chẫm sáng lù mù quanh quất nơi phố huyện. Thạch Lam đã tìm cách nâng cao ý nghĩa khái quát nghệ thuật của một tình tiết có thật trong cuộc đời hai em bé. Đoàn tàu như mang đến một thê" giới khác hẳn với vầng sáng lù mù của mấy ngọn đèn leo lét nơi phố vắng một huyện nhó. Một phút ánh sáng ở một thế giới xa xăm, những mơ ước của hai đứa trẻ vụt đến và đi qua, phố huyện lại chìm sâu vào bóng tôi hiu quạnh.

Câu chuyện của Thạch Lam để lại trong tâm hồn ta những'dư vị đằm thăm của quê hương và một sự cảm thương man mác những cuộc đời thâm lặng như những chấm sáng lù mù bị nhòe đi trong bóng tối dày đặc của một vùng quê tù đọng. Thạch Lam cũng muốn đánh thức dậy trong những tâm hồn mệt mỏi, cam chịu những ước mơ trong sáng về một cuộc đời đẹp đẽ hơn, có ý nghĩa hơn, sôi nổi và mãnh liệt hơn.

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 4

Thạch Lam- một nhà văn tiêu biểu cho dòng văn học văn lãng mạn. Tuy nhiên cái lãng mạn trong văn của ông nó rất lạ, độc đáo: xuất phát từ hiện thực, tinh tế, nhẹ nhàng và đi sâu vào lòng người. Đó là cái lãng mạn tích cực, lãng mạn đẹp. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” rút ra từ tập “Nắng trong vườn” là một minh chứng. Truyện viết xúc động về người nghèo, những em bé nhà nghèo ở một phố huyện nhỏ với lời văn nhẹ nhàng, tinh tế nói lên lòng xót thương đối với những kỷ niệm và ước mơ bình dị, cảm động của những em bé nơi phố huyện nghèo ngày xưa.

Truyện Hai đứa trẻ được tác giả miêu tả theo trình tự không gian và thời gian. Không gian đó là từ khi mặt trời bắt đầu lặn cảnh vật có màu sắc nhờ nhờ  rồi chuyển sang đen sẫm, còn trình tự thời gian từ lúc chiều tà tới đêm. Mở đầu truyện là hình ảnh phố huyện lúc hoàng hôn được tác giả miêu tả bằng những câu văn có nhịp điệu thong thả, chậm rãi, cùng với những âm thanh, hình ảnh báo hiệu đã hết một ngày thông qua tiếng trống thu không cùng hình ảnh : “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Đó là một buổi chiều êm ả, không gian tĩnh lặng tới mức có thể nghe được cả tiếng kêu của lũ ếch nhái từ ngoài đồng xa vọng lại theo làn gió thổi : “ Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ bay vào”. Khung cảnh phố huyện buổi chiều tà còn được miêu tả cụ thể, sinh động và gợi cảm dưới mắt của hai đứa trẻ. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu “ người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Qua hình ảnh cảnh chợ tàn đã phần nào phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Sau khi buổi họp chợ tan, mọi người ra về và khi đó  trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Đồng thời cảnh chiều tà nơi phố huyện còn được miêu tả qua khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Thông qua tất cả các âm thanh và hình ảnh trên đã vẽ lên một bức tranh phố huyện nghèo, buồn nhưng lãng mạn.

Trời chuyển sang tối dần : “Trong cửa hàng của chị em Liên, tiếng muỗi vo ve. Liên bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thìa vào tâm hồn khi ngồi bên cạnh những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy dần bóng tối.”. Ánh sáng của mặt trời yếu dần rồi mất hẳn, những loài động vật kiếm ăn đêm xuất hiện đó là những con muỗi bay và phát ra tiếng vo ve. Tất cả khung cảnh đều dần bị bao trùm bởi màu đen khi bóng tối kéo tới. Nó khiến cho cảnh phố huyện trở nên buồn, u tối. Cả con phố đều ngập chìm trong màu đen, ánh sáng chỉ xuất hiện ở một vài nơi nhưng chúng yếu ớt và le lói chiếu sáng một vùng hẹp như ngọn đèn dầu từ trong quán của chị em Liên, ánh sáng từ bếp lửa di động của bác phở Siêu và ngọn đèn Hoa Kỳ của mẹ con chị Tí soi ra từ quán nước hay ánh sáng tỏa ra từ các toa tàu khi có tàu đi qua phố huyện nhưng hình như trên đó là một thế giới khác. Cả một không gian rộng lớn nơi phố huyện chỉ có vài điểm sáng nhỏ, yếu gợi lên một bức tranh của một phố huyện nghèo và  nhuốm màu của nỗi buồn.

 Bức tranh phố huyện còn được miêu tả sinh động với cuộc sống thường nhật của người dân phố huyện- những con người sống cuộc sống nghèo khổ, vất vả, lam lũ trong cuộc mưu sinh như : những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, vợ chồng bác Xẩm, bà cụ Thi điên và nhân vật chính của truyện ngắn là hai chị em Liên và An. Sau khi phiên chợ chiều đã vãn, bóng tối chưa buông xuống nhưng những cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Trước hết, là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ  chúng : “tranh nhau nhặt nhạnh tất cả những gì có thể dùng được, một thanh nứa, thanh tre hay bất kì cái gì có thể dùng được”. Đó là cuộc sống cùng khổ của chúng với những thứ mà người ta đã vứt đi.

Tiếp đến là mẹ con chị Tí, ngày nào cũng vậy cứ đến giờ này mẹ con chị lại lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này” với những mặt hàng rất mộc mạc, bình dân như nước chè tươi, thuốc lào bởi vậy khách hàng của quán chị cũng chỉ là  phu gạo, phu xe, mấy chú lính trong huyện hay người nhà thầy thừa, thầy lục mà thôi.

Cuộc sống vất vả như vậy nhưng ít nhất mẹ con chị cũng có chỗ bán cố định với đồ nghề mặc dù chỉ “chỉ vẻn vẹn có cái chõng tre, vài mặt ghế, cái ấm mấy cái chén” nhưng so với vợ chồng bác Xẩm thì vẫn có vẻ may mắn hơn. Vợ chồng bác Xẩm mù lòa cùng đứa con đang bò lê ra cát đang vất vả mưu sinh với gia tài chỉ có manh chiếc rách và chiếc thau thủng. Cuộc sống hàng ngày của vợ chồng bác và đứa con nhỏ phụ thuộc vào lòng tốt, sự bố thí của người khác. Họ cho gì thì ăn nấy. Vì vậy, nhiều hôm cả ngày không xin được gì cũng chẳng có ai thương xót thì bao nhiêu miệng ăn nhà bác đều phải nhịn đói.

 Ngoài các nhân vật như mẹ con chị Tí, vợ chồng bác Xẩm và một vài đứa trẻ bới rác Thạch Lam còn  phác họa một nhân vật nữa là bà cụ Thi. Cảnh sống bí hiểm của bà cụ Thi, một bà cụ già hơi điên. Bà đến quán của chị em Liên với tiếng cười khanh khách quen thuộc, mua cút rượu , khen Liên rót đầy rồi ngửa cổ uống cạn sạch, lảo đảo bước đi, lẩn vào bóng tối và “tiếng cười khanh khách nhỏ dần”. Một nhân vật khác cũng được nhắc đến khi nói về cuộc sống của người dân phố huyện đó chính là bác phở Siêu. Hình ảnh của bác xuất hiện với gánh hàng kẽo kẹt, một bên là hàng một bên là cái bếp than hồng.

 Thạch Lam đã thể hiện sự thương xót, nhân hậu cùng một trái tim đầy tình người đối với hai đứa trẻ, đó là nhân vật Liên và bé An. Hai chị em Liên chuyển từ Hà Nội về sống ở phố huyện này kể từ bố Liên bị mất việc. Mẹ Liên đã thuê một quán nhỏ gần ga để bán hàng xén và giao công việc này cho hai chị em. Ngày nào cũng vậy, theo lời mẹ Liên thường đóng cửa muộn bởi : “Mẹ dặn phải thức cho đến khi xe lửa đi qua, may ra còn có người ở tàu xuống ghé mua hàng. Hai chị em ngồi trên chõng trước hiên chờ”. Chính vì vậy, hai chị em ngày nào đến tầm tối lại cùng nhau ra ngồi trên chõng đợi tàu chạy qua. Khi nhìn vào ánh sáng của tàu khiến hai chị em nhớ lại khoảng thời gian sống trên Hà Nội, đó là những tháng ngày cuộc sống đầy đủ hạnh phúc của gia đình Liên. Liên và An đều là những cô bé còn nhỏ nhưng đã phải sống trong cảnh phố huyện nghèo cùng với những con người vất vả, lam lũ đang từng ngày từng giờ vật lộn với cuộc mưu sinh là một bức tranh hiện thực của cuộc sống nơi phố huyện. Nhưng với trái tim nhân hậu, giàu tình thương của mình Thạch Lam đã thổi vào bức tranh ấy chất lãng mạn, niềm hi vọng vào cuộc sống thông qua nhân vật Liên và An. Với cách miêu tả tâm hồn hồn nhiên trong sáng và mơ mộng của hai chị em Liên khi chờ tàu về. Chúng luôn háo hức mỗi khi được ngồi ở chõng chờ đoàn tàu đi qua. Trong suy nghĩ, tưởng tượng của hai chị em cuộc sống trên tàu chắc hẳn rất vui, rất hạnh phúc và nó như một thế giới khác, khác hẳn so với cuộc sống mà chị em Liên và người dân phố huyện đang sống – một cuộc sống tù túng, tẻ nhạt. Chúng mơ ước, khao khát một ngày sẽ được lên đoàn tàu và đến nơi hạnh phúc- nơi chúng có thể được uống những thứ nước xanh đỏ mơ ước. Chính vì vậy, hai chị em rất háo hức chờ tàu, rồi ngắm, nhìn theo cho tới khi tàu đi khuất xa hẳn thì mới chịu dọn hàng. Đó đã là lúc trống cầm canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm ngay vào bóng tối. Lúc này, các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen như ngoài phố. Con tàu với ánh đèn sáng trưng đi qua rồi thì đêm tối lại bao quanh, màn đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và im lặng. Chị em Liên cũng đi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối nhưng luôn hi vọng, ước mơ về một cuộc sống tươi sáng, đẹp đẽ.

Hai đứa trẻ của Thạch Lam là một trong những truyện ngắn làm nên tên tuổi của ông. Trong tác phẩm này, Thạch Lam không viết về những tên thuộc tầng lớp thống trị tàn ác chỉ biết bóc lột, hay những kẻ chỉ than thân trách phận mà với giọng văn nhẹ nhàng ông đã viết về hiện thực bức tranh không gian và cuộc sống của những con người nơi phố huyện nghèo. Thông qua nhân vật Liên và An tác giả đã thể hiện được tình thương, lòng nhân hậu, thương xót cho những con người nghèo khổ phải sống vất vả trong cuộc sống tù túng, tẻ nhạt bằng cách gieo niềm tin, hi vọng về một cuộc sống hạnh phúc, một tươi lai tươi sáng.

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 5

1. Cùng với hai người anh ruột là Nhất Linh và Hoàng Đạo, Thạch Lam đã góp công lớn vào hai tờ báo Phong hóa, Ngày nay, cơ quan ngôn luận của nhóm Tự lực Văn đoàn, ngay từ tháng 9 năm 1932 và những năm sau đó. Thạch Lam đã từng phát biểu về quan niệm sáng tác văn chương của mình: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tô cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Tác phẩm, nhất là truyện ngắn của ông đã phản ánh một cách trung thành quan niệm sáng tác ấy. Rất nhiều truyện nằm trong luồng tư tưởng hiện thực phê phán mô tả đời sống cơ cực, vất vả của người dân nghèo cả ở nông thôn lẫn thành thị. Người đọc không thể ngăn được tiếng thở dài đồng cảm khi đọc truyện ngắn Nhà mẹ Lé, Đói, Tối ba mươi… Lại có những truyện phản ánh cuộc đời thường dung dị, nèn thơ và đầy lòng nhân ái mà Hai đứa trẻ là truyện tiêu biểu.

2. Đêm ở một phố chợ trong huyện nhỏ. Hai chị em An, Liên thay mẹ bán hàng xén ở chợ. Hôm ấy, chợ đã tan nhưng hai chị em vẫn chưa dẹp hàng. Hai chị em ra ngồi trước cửa hàng quan sát phố chợ lúc đêm sắp về. Chợ chỉ còn vài người chuẩn bị ra về, mấy đứa trẻ nghèo lượm rác, chị Tí dọn hàng nước ra bán, một cụ bà mua rượu hàng phở bác Siêu, vợ chồng bác hát rong… Hai chị em cố thức là để chờ chuyến xe lửa đi qua, mang một chút ánh sáng Hà Nội huyên náo về… An đã ngu say, Liên cũng tới bên em nằm xuống và nhập vào cái tịch mịch và đầy bóng tối cua phố huyện.

Cốt truyện gần như chẳng có gì cả là hấp dẫn. Nhân vật chính của truyện là hai chị em Liên và An. Tất cả những gì gọi là sinh hoạt của phố chợ từ buổi chiều cho tới đêm khuya đều được đôi mắt của hai chị em thu vào. Từ những con mắt trầm lặng ấy, Thạch Lam miêu tả cảnh phố chợ chiều đến, đêm về theo trình tự thời gian, và công việc thường ngày của những người sống nhờ chợ.

Trước hết là bức tranh không gian chiều. Bức tranh mở đầu bằng âm thanh của “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi chiều về”. Đấy là một tứ thơ đẹp không thể có trong bức tranh của một họa sĩ nào dù ông ấy có tài đến đâu. Ta cứ ngỡ như tiếng trống thu không ấy đã được mọi vật của thế giới tự nhiên cảm nhận nên đã lần lượt kéo về tuần tự trước mắt của hai chị em. Nền của bức tranh chiều bao trùm bởi “Phương tây, đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Cái màu đỏ rực kia đã có bóng dáng của màu xám trắng sẽ chuyển đổi dần sang độ đậm theo kim đồng hồ. Có thế gọi đó là màu thời gian. Trên nền xanh ấy, ‘‘Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Đã có thêm nét chấm phá cùa màu đối nghịch. Cái màu “đen lại” cũng là màu thời gian chuyển đổi từ màu xanh lục của tre… Tiếng trống thu không điểm từng tiếng một đã lôi kéo thêm “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đấy là cảnh nền, cảnh xa của “Một chiều êm ả như ru” như chính giọng điệu của lời văn miêu tả nó. Văn Thạch Lam giàu chất thơ là ở chỗ ấy, bước đầu đã khá rõ ràng.

Và gần hơn là cảnh “các nhà đã lên đèn cả rồi”. Từ những ngọn đèn ấy, người đọc có thể đoán ra người nghèo, kẻ giàu; “đèn treo trong nhà bác phở Mĩ., đèn giây sáng xanh trong hiệu khách” chắc chắn sáng hơn ngọn “đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu”, ngọn đèn trong cửa hàng của chị em Liên. Cái khéo, cái tinh tế trong miêu tả của Thạch Lam chính là ở “những nguồn sáng ấy đều chiếu ra ngoài phố khiến cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng, một bên tối”. Không có cái nhìn tỉ mỉ, tinh thế thì sẽ không có những gam màu mờ ảo ấy trong bức tranh đêm phố huyện. Sẽ là thiếu nếu không kể ra thêm “Trên đất chỉ còn rác rưỡi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng cua ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố chợ huyện nhỏ đêm về lại có thêm mùi vị của quê hương, ở những câu văn ấy, ngoài chức năng miêu tả còn chức năng khơi gợi một thứ tình cảm nồng nàn, thấm sâu của nhà văn không lấy văn chương làm trò giải trí.

Và tất nhiên bức tranh phố chợ huyện về đêm có cả con người, những con người có cuộc sống thầm lặng, tất bật về chuyện áo cơm, đói nghèo. Đấy là “thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra; chị Tí, mẹ nó, theo sau, đội cái chõng trên đầy và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc: tất cả cái cửa hàng của chị”. Ngoại trừ những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ đang cúi lom khom tìm tòi, nhặt nhạnh những cái gì còn dùng được do nhừng người bán hàng để lại, ngoại trừ bà cụ Thi hơi điên có tật nghiện rượu thì có lẽ chị Tí là người nghèo có hạng ở huyện nhỏ này. Nhìn hàng quán của chị thì biết: dụng cụ để bán nước chè tươi và cái điếu hút thuốc lào. Qua ngòi bút của Thạch Lam, chị sống bằng nghề mò cua bắt tép ban ngày, còn ban đêm thì chị bán nước, thuốc lào cho “mấy người phu gạo hay phu xe, thỉnh thoảng mấy chú lính lệ hay người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm” cao hứng ghé vào uống.

Một lát có thêm hàng phở của bác Siêu, “Bác… đặt gánh phở xuống đường. Bác cúi xuống nhóm lại lửa, thổi vào cái ống nứa con. Bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng…”.

Rồi có “thêm được gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe” …

Nhân vật phụ thêm một số người làm công ở các hiệu khách đi đón bà chủ ở tỉnh về. Những con người ấy báo hiệu chuyến tàu sắp đến.

Thạch Lam chỉ miêu tả công việc của những nhân vật ấy, những câu đối thoại tự nhiên giữa họ với nhau. Nhưng từ đó, người đọc có thể nhận ra từng số phận của con người trong mẫu số chung là cảnh nghèo, và hiện thực xã hội dưới chế độ phong kiến thực dân. Gia đình bà cụ Thi ở đâu? Tại sao bà lại điên điên và lại có tật nghiện rượu? Truyện không miêu tả, nhưng người đọc có thểcảm nhận số phận bất hạnh của một người vợ, một người mẹ qua cuộc sống lang thang của bà. Cụ điên điên vì một cú sốc đau khổ có lẽ lớn lắm và cụ mượn rượu để quên đi đời sống bất hạnh của mình? Và cái gia đình của bác xẩm kia, gia sản chỉcó manh chiếu và cái thau sắt da dụng, cái đàn bầu và giọng hát còn nằm vên trong cổ họng vì vắng khách. Cả gia đình bác sống nhờ vào mớ đồ nghề ấy, và vào lòng hảo tâm của khách qua đường. Đời vợ chồng bác đã thế, còn đời của “thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường” thì sao? Cả đến cuộc sống của gia đình chị Tí, những đứa trẻ con nhà nghèo kia, sau này sẽ ra sao? Nhà văn đã khái quát về số phận của những con người sống giữa phố chợ về đêm bằng một câu ngắn “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Một câu văn nhẹ nhàng, cũng như những câu văn miêu tả những gì về các nhân vật kia, không có gì là hằn học, kết án nhưng vẫn mang sức mạnh tố cáo, và hơn thế nữa là mong ước có sự đổi thay đế người dân nghèo bớt khổ, để xã hội không có những trẻ em đi lượm rác, những bà cụ điên điên đi ăn xin và không còn những gia đình như gia đình bác xẩm.

Chừng ấy nhân vật đã tạo nên cảnh sinh hoạt phố chợ trong đêm, âm thầm và lay lắt trước sự chứng kiến của Hai đứa trẻ, hai chị em Liên và An nhân vật chính trong truyện.

Đã một thời, hai chị em cùng ở với bố mẹ ở Hà Nội, đà từng dược dẫn “đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”, nghĩa là hai chị em đã sống ở phố hội hoa đèn. Nhưng tại sao lại về phố huyện này? Chỉ vì “thầy Liên mất việc”, cả nhà phải về đây, thuê lại gian hàng bé này và mẹ giao cho Liên trông coi. Công việc chính của chị em Liên là bán và trông coi hàng, ngủ tại chỗ.

Đương nhiên An nhỏ tuổi, tâm hồn còn ngây thơ. Thấy bọn “trẻ con tụ họp nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ” An cũng muốn nhập bọn với chúng để nô đùa. Có thêm người ra chợ đêm, em vui mừng hơn. Đấy là tâm lí trẻ hồn nhiên và hiếu động, lứa tuổi mà ăn và ngủ vẫn còn có sự hiện diện của bản năng. Khi miêu tả tâm lí nhân vật, Thạch Lam không quên điều ấy, và cũng không quên bản chất của giáo dục gia đình có trong người của em. Dù muốn nhập bọn vui chơi với bọn trẻ nhưng An không dám, vì sợ mẹ. Luôn luôn gọi “chị” và xưng “em” trong mỗi câu nói cũng là rõ thêm bản chất giáo dục của một gia đình tốt. Chờ tàu, An buồn ngủ lắm. Buồn ngủ thì em cứ nằm xuống chõng, gối đầu lên đùi chị mà ngủ, nhưng vẫn dặn: “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Và hôm ấy, khi tàu chạy qua và khuất sau rặng tre thì An nói với chị: “Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ”, rồi giục chị đi agủ. Ngồi thức đợi tàu, trước khi ngủ thì dặn chị nhớ gọi dậy xem tàu chạy qua. Đó chính là sở thích và tính tò mò của trẻ chứ chưa hẳn đã có ý thức sâu xa về những kỉ niệm, về hoàn cảnh sống của mình. Sau khi tàu đã chạy khuất, An lại quay ra ngủ tiếp. Có thể dăm mười năm sau, những đêm đợi tàu như thế này vừa là kỉ niệm vừa gợi cho em một ý thức nào đấy về xã hội lúc bấy giờ, còn lúc ấy, với em, đợi tàu chỉ là thói quen tò mò, và là niềm vui ở phố huyện nhỏ.

Ngược với em, Liên đã hiểu biết hơn, được mẹ giao trọng trách trông coi cửa hàng xén, chưa quản lí toàn diện nhưng đã bước vào việc quản lí hàng hóa tiền bạc và nhất là phải tiếp xúc với nhiều người.

Trong công việc chúng ta thấy ở Liên tính cẩn thận, ngăn nắp. Qua ngòi bút của Thạch Lam, Liên tỏ ra là người rành rọt trong việc mua bán. Đã hết một ngày, “Liên đếm lại những phong thuốc lào, xếp vào hòm những bánh xà phòng. Còn lại, vừa lẩm nhẩm tính tiền hàng”. Kiểm hàng còn lại trước khi kiểm tiền đã bán được trong ngày là kinh nghiệm của người rành buôn bán. Khi cảm thấy trong quán quá nóng, không thể ngồi cộng tiền, “Liên khóa vội tráp tiền với một chiếc khóa chị đeo vào cái dây xà tích bạc ở thắt lưng”. Tất cả đều biểu lộ tính cẩn trọng của Liên, cẩn trọng ngay cả khi bán rượu cho bà cụ Thi hơi điên điên.

Nhưng quý hơn cả những đức tính trên của Liên là lòng thương người, thân tình với người nghèo lương thiện. Nhìn mấy đứa trẻ con nhà nghèo lom khom lượm rác, “Liên… động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng nó”. Đúng vậy, tuy bán hàng nhưng tiền do mẹ quản lí, Liên không có quyền; lại nữa là cha của Liên đang thất nghiệp. Ngay cả khi nghe mùi phở thơm của nhà bác Siêu bay tỏa khắp nơi thì Liên thèm lắm, nhưng không dám ăn vì không có tiền riêng.

Cứ nhìn cách nói, cách đối xử qua những câu văn của Thạch Lam thì Liên thương em lắm. Bao giờ chị cũng nhỏ nhẹ, và chiều ý em. Hình ảnh “An đă nằm xuống gối đầu lên đùi chị”, “Liên khẽ quạt cho An, vuốt lại mái tóc tơ…”, “Chị cúi xuống vực em vào trong hàng…” đã làm nổi bật đức tính đáng quý ấy.

Trong thế giới riêng tư, Thạch Lam miêu tả một cách tỉ mỉ tâm trạng của Liên, khi ngày sắp tàn, đêm về, và cố thức để chờ đợi chuyên tàu đi qua. Đấy là tâm trạng buồn, nuối tiếc, biết tìm niềm vui, tìm hi vọng dù trong phút chốc thôi – giữa cuộc sống quẩn quanh chưa có lối thoát.

Ở phần đầu của truyện ngắn, Thạch Lam miêu tả nỗi buồn của Liên trước buổi chiều sắp tàn bằng những câu văn như hòa nhập hẳn vào nhân vật: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thìa vào tâm hồn ngây thơ của chị: Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Viết như thế, nhưng thực ra Liên đã hiểu vì sao cô buồn, nỗi buồn hoài niệm. Hai hình ảnh: một của quá khứ khi cô còn ở Hà Nội, và một là hình ảnh hiện tại ở phố huyện đêm ấy đã giải thích nỗi buồn của Liên. “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chỉ được hưởng những thức quà ngon lạ…, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá! Từ khi nhà Liên dọn về đây…, đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng…” nhìn đốm đèn leo lét của chị Tí, của bác Siêu, của gia đình bác hát rong kiếm tiền sống qua ngày. Đêm này qua đêm khác, sinh hoạt của phố huyện nhỏ chỉ có thể, quẩn quanh, đơn điệu, nghèo khó. Liên nhìn họ, “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng lo cho mình, tìm mọi cách bươn chải để sống và hi vọng. Cái quán bán nước chè xanh của chị Tí, quán bán phở của nhà bác Siêu có ngọn đèn không xa hơn. Đã có lúc hai chị em Liên đã ngước mắt nhìn lên các vì sao… thế nhưng “Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại cúi nhìn về mặt đất..” và khi nhìn về mặt đất thì lại chỉ thấy ngọn đèn leo lét của nhà bác Siêu, của chị Tí giữa mênh mông đêm tôi đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa. Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa..”. Cuộc sông rõ ràng là đen tối và bế tắc đưa con người vào tâm trạng chán chường, vất vưởng. Một ngày như thế, và những ngày như thế: một đêm như thế và những đêm như thế: ánh sáng nhỏ bé đối lập với bóng đêm bao trùm lặng lẽ thì chỉ có và chỉ còn con tàu chạy qua đây trong giây lát là hình ảnh sinh động nuối tiếc: “Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyển tàu, đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”. Và cuối cùng thì con tàu đã tới. Liên đánh thức em dậy. Bé An dụi mắt cho tỉnh ngủ để được nhìn rõ con tàu. Con tàu có các toa đèn sáng trưng, người lố nhố trên các toa sang trọng. Hai chị em đã đứng cả dậy để nhìn cho rõ, rồi còn “nhìn theo cái chấm nhổ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”. Thế là hết! Con tàu mang ánh sáng đô thị cứ vô tình chạy trên đường ray, để lại phố huyện với bóng tối đêm khuya, để lại “vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ”, để lại một cô “Liên lặng theo mơ tưởng Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu..”. Đó là cái cớ khác giải thích cho việc chị em Liên đợi tàu, một hình ảnh đối lập hẳn với hiện thực của phố huyện nơi gia đình Liên đang sống, cũng như bao phố huyện khác trên đất nước này vào những năm trước 1945; hay nói một cách khác thì đó là hình ảnh mà chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng” như tâm trạng của Liên khi nằm xuống bên em để tìm vào giấc ngủ: “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Thế thôi, cái thế giới khác kia, cải thứ ánh sáng hạnh phúc kia họ không thể nào đạt được có chăng là mỗi đêm cô thức để đợi con tàu ấy qua để họ càng cảm nhận sâu hơn phận nghèo xơ xác của đời mình.

3. Lối viết lãng mạn, trữ tình không chỉ dành cho miêu tả tình yêu đôi lứa, mà vẫn có thể sử dụng để miêu tả hiện thực cuộc sống của con người, như truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Dù có cốt truyện đơn giản, không có những nhân vật tạo nên kịch tính dữ dội, gay gắt như những truyện ngắn của Nam Cao, Nguyễn Tuân… nhằm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc nhưng với phong cách viết nhẹ nhàng, miêu tả một cách tinh tế đặc tính tâm lí của từng nhân vật, chắt lọc trong từng cảnh trí… Thạch Lam thực sự là nhà văn viết bằng cả tâm hồn mình trước cảnh thiên nhiên và trước những con người có số phận hẩm hiu, có cuộc đời nghèo khổ. Không hề có những câu văn tố cáo nhưng vẫn hàm chứa tính chất tố cáo sự bất công của nhà cầm quyền cũ về tạo sự cách biệt đời sống giữa thành thị với nông thôn. Nhà văn thực sự đã hòa tâm hồn mình vào những mảnh đời âm thầm của vùng quê nghèo khó với mục tiêu đẩy lùi “cái thế giới giả dối và tàn ác” vào quá khứ để ngọn lửa của hi vọng bừng lên trong đời sống của "chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ” như ông đã viết trong truyện ngắn nổi tiếng này.

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 6

I. Tác giả và tác phẩm

1. Tác giả

Thạch Lam (1910-1942) tên khai sinh là Nguyền Tường Vinh, sinh tại Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại. Gia đình Thạch Lam có truyền thống về văn học, cả ba anh em ông đều là những tác giả xuất sắc trong Tự lực văn đoàn. Ông bắt đầu sự nghiệp làm báo, viết văn sau khi đỗ tú tài phần thứ nhất.

Thạch Lam là người đôn hậu và rất tinh tế. Ông có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn, ông thường viết những truyện không có chuyện, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc.

Thạch Lam để lại những tác phẩm xuất sắc như tập truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942); tùy bút Hà Nội băm sáu phố phường (1943).

2. Tác phẩm

Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, in trong tập N

0