25/05/2017, 00:53

Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Văn mẫu lớp 11

Đánh giá bài viết Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 1 của một học sinh chuyên Văn trường PTTH chuyên Hạ Long Quảng Ninh Khao khát giao cảm với đời, ham muốn sống mãnh liệt trong tuổi trẻ và tình yêu là đặc điểm của thơ Xuân diệu. Ở mỗi sáng tác, mỗi vần thơ của ông, ta đều ...

Đánh giá bài viết Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 1 của một học sinh chuyên Văn trường PTTH chuyên Hạ Long Quảng Ninh Khao khát giao cảm với đời, ham muốn sống mãnh liệt trong tuổi trẻ và tình yêu là đặc điểm của thơ Xuân diệu. Ở mỗi sáng tác, mỗi vần thơ của ông, ta đều thấy cái chất Xuân Diệu ấy. Nếu trong Tòa nhị Kiều là một tấm lòng yêu thương người phải sống một ...

Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 1 của một học sinh chuyên Văn trường PTTH chuyên Hạ Long Quảng Ninh

Khao khát giao cảm với đời, ham muốn sống mãnh liệt trong tuổi trẻ và tình yêu là đặc điểm của thơ Xuân diệu. Ở mỗi sáng tác, mỗi vần thơ của ông, ta đều thấy cái chất Xuân Diệu ấy.

Nếu trong Tòa nhị Kiều là một tấm lòng yêu thương người phải sống một cuộc sống buồn tẻ, mờ nhạt thì trong Vội vàng, đó cũng là một tấm lòng, một tâm hồn yêu đời, yêu người đến cuồng nhiệt trước cuộc sống “mới bắt đầu mơn mởn”. Ngay tựa đề của bài thơ, ta đã thấy cái gì đó “vội vàng”, cuống quýt, ham muốn của một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống của Xuân Diệu.

Tôi muốn tắt nắng đi,

Cho màu đừng nhạt mất;

Tôi muốn buộc gió lại,

Cho hương đừng bay đi.

Ý muốn táo bạo quá! Phải chăng hồn thơ thiết tha với đời ấy đang lo lắng trước sự đổi thay của đất trời, cảnh vật nên muốn ôm tất cả, muốn giữ tất cả với vẻ đẹp vốn có của nó?… Ý muốn của Xuân Diệu lớn quá, mạnh mẽ quá như chính hồn ông vậy? “Muốn tắt nắng đi”, “Muốn buộc gió lại” có lẽ không ngoài ý muốn giữ cho vũ trụ ngừng quay, ý tưởng giữ lại cái đẹp, giữ lại thời gian… Những ý muốn, những hành động của ông cứ mạnh dần lên, lớn hơn lên: “tắt nắng” rồi lại “buộc gió”; cũng như sự “lớn” của lòng ham muốn của niềm khao khát trước cuộc sống trần thế đang tràn đầy hứa hẹn. Một loạt những điệp từ “này đây”, “này đây” đặt song song nhau như sự sắp đặt những món ăn tinh thần sẵn có, như gợi mở quyến rũ hấp dẫn đến lạ kì. Qua “cặp mắt xanh non” của nhà thơ, cuộc sống trần thế xung quanh ta bỗng được phát hiện như một thiên đường, phong phú giàu có. Cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc, những cái giá trị nhất của cuộc đời đang được Xuân Diệu phát hiện. Cái gì cũng “biếc rờn”, “mơn mởn”. Khác với những nhà thơ cùng thời, Xuân Diệu cũng chịu “nỗi buồn thế hệ”, nhưng không có phần chán chường, buồn nhưng ông vẫn nhìn thấy cuộc sống tươi đẹp, đáng sống. Không như Chế Lan Viên trong “Điêu Tàn” có phần quay lưng lại thực tại một cách gay gắt, quyết liệt, hay chán nản, bế tắc như trong những vần thơ của Huy Cận, hoặc tìm đến một nơi tiên cảnh như trong thơ Thế Lữ, thơ Xuân Diệu luôn toát lên niềm ham sống mãnh liệt. Đó là nét bao trùm của hồn thơ ông. Tất cả như gợi lên sự tận hưởng, gợi lên niềm tha thiết với tình yêu và cuộc sống. Cảnh vật đầy hứa hẹn về tương lai, về hạnh phúc và với Xuân Diệu, cuộc đời đầy đáng yêu, ngay cả tháng giêng cũng thật thi vị, hấp dẫn:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Một câu thơ gợi cảm thật đắt! Xuân Diệu không nói cả mùa xuân mà chỉ nói mỗi tháng giêng – tháng đẹp nhất, tháng mở đầu cho cả mùa xuân. Nói tháng giêng, nhưng Xuân Diệu gợi đến cả mùa xuân, mùa mà vạn vật căng đầy sức sống: cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa lá xanh tươi, con người trẻ trung yêu đời, tất cả như trỗi dậy một sức sống mạnh mẽ, một niềm say sưa sống, thiết tha với đời. “Tháng giêng” là tháng đẹp nhất của mùa xuân, mùa xuân là “mùa” đẹp nhất của con người, của cuộc đời. Thiên nhiên đẹp được Xuân Diệu ví với “cặp môi gần”. Đây là một câu thơ rất Xuân Diệu, khác hẳn so với thơ ca truyền thống. Nếu thơ ca truyền thống lấy chuẩn mực cái đẹp là cỏ cây hoa lá, thì Xuân Diệu lại lấy chuẩn mực của cái đẹp là con người. Cái hay, cai đẹp của hồn thơ Xuân Diệu, cái rất Xuân Diệu có phần là ở đó. Khác với Nguyễn du tả mùa xuân đẹp với chuẩn mực là thiên nhiên, khác với Chế Lan Viên Điêu tàn , màu xuân đẹp, hấp dẫn là thế mà thi sĩ chối bỏ gay gắt, quyết liệt. Đối với Xuân Diệu, mùa xuân thật tươi đẹp, thật quyến rũ. Ông luôn đón nhận nó một cách mãnh liệt, thiết tha. Bởi lẽ ông đang trong thời xuân. “Cặp mắt xanh non”, “biếc rờn” cảu nhà thơ nhìn cái gì cũng đẹp, cũng thấy thú vị , hấp dẫn: “ngon như một cặp môi gần”. “Tháng giêng ngon như một cặp môi” là câu thơ trong sáng. Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một cảm nhận trước phần “ngon nhất” của cuộc đời. Câu thơ vừa tả cảnh lại vừa ngụ tình – Xuân Diệu, khát khao hạnh phúc, khát khao yêu đương, tha thiết cuộc đời đến cuồng nhiệt. Xuân Diệu đã “say sưa”, “chếnh choáng” trước vẻ đẹp “no nê”, “đã đầy” của mùa xuân. Nhưng vì lẽ thường, Xuân chỉ là một trong bốn mùa của một năm, chỉ tồn tại một thời gian để mùa hạ, mùa thu, mùa đông sẽ đến, nên xuân mang trong nó tính thời gian, mang  ý nghĩa trôi chảy.

Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Khát khao giao cảm với đời nên Xuân Diệu nhạy cảm, khám phá được nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên. Ông đang chứng kiến sự chuyển vần, thay đổ nhanh chóng của trời xuân, đang chứng kiến thời gian trôi qua, và cái hữu hạn của đời người. Cuộc đời sẽ mất đi, xuân sẽ qua đi, nhưng thời gian vẫn mãi mãi là thời gian, trường tồn cùng vũ trụ. Có lẽ thế mà Xuân Diệu lúc nào cũng hấp tấp, vội vàng, giục giã để tận hưởng hết phần quý nhất, đẹp nhất của đời. Lúc nào Xuân Diệu cũng cuống quýt, vội vã:

Mau với chứ vội vàng lên với chứ!

Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai!

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.

“Mau đi thôi”, vì mùa xuân của cuộc đời cũng phải qua đi, mà bi đát thay, lại không được tuần hoàn như mùa xuân của đất trời. Cuộc đời, tuổi xuân đi qua là không bao giờ trở lại. Nhịp thơ, câu thơ cũng như đang “vội vàng”, gấp gấp, nhanh nhanh, dồn dập. Lúc nào cũng cuống quýt, cũng “gấp đi em”, nên lúc nào Xuân Diệu cũng muốn níu kéo, muốn giữ lại tuổi trẻ, tình yêu. Tấm lòng Xuân Diệu lớn quá, hồn thơ mênh mông quá “nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”, Xuân Diệu là thế đấy!

Ta muốn ôm,

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.

Chữ “ôm” như gói trọn “cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, như ghì riết, ôm tất cả để giữ lại tất cả. “Cặp mắt biếc rờn” của nhà thơ như đang khám phá hết những bí ẩn của thê sgiới thiên nhiên, như thấy tất cả đều căng đầy, tràn trề nhựa sống. Nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ thơ mới” (HoàiThanh) đang làm cho bạn đọc trẻ lòng, trẻ tuổi kinh ngạc khi thưởng thức thơ ông đó sao? Lời thơ mạnh mẽ, trần thế quá. Nhưng đó là cái tâm, cái hồn nhà thơ thiết tha sự sống, yêu cuộc đời đến cuồng nhiệt, muốn được “chuếch choáng”, “no nê” trong sự tận hưởng hết giá trị, hết cái đẹp của cuộc sống và tình yêu. Ta cảm giác như Xuân Diệu đang hạnh phúc, đang sung sướng đón nhận một món quà, một niềm vui tột bậc khi nhà thơ buông câu kết:

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Mùa xuân như một trái chín ửng hồng, như mời mọc ta, hấp dẫn ta, thôi thúc ta hành động đế đến cái đích: “cắn vào ngươi!”. Lòng ham muốn mãnh liệt trong thơ Xuân Diệu trước tình yêu, trước cuộc đời mãi mãi là khát vọng, là ham muốn chưa toại nguyện. Xuân đẹp quá, gần quá mà chưa tới được.

Như thế “Vội vang” không chỉ thể hiện một hồn thơ Xuân Diệu, một tấm lòng Xuân Diệu trước cuộc đời mà còn thể hiện một quan niệm nhân sinh mới “chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống”. Đó là thái độ sống tích cực, sống hết mình, sống “say sưa’, sống cuồng nhiệt của Xuân Diệu.

“Vội vàng” đúng là một bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát giao cảm với đời. Mặc dù có thể còn không ít cách cảm nhận khác nhau, nhưng nhìn chung, bài thơ này khiến phần đông người đọc biết yêu cuộc sống trần thế, biết tận hưởng niềm hạnh phúc được sống trên trái đất này, và thêm quý trọng tuổi thanh xuân một đi không bao giờ trở lại, để không bao giờ phải ân hận xót xa, bởi những năm tháng sống hoài phí. Xuân Diệu mãi mãi là nhà thơ của tình yêu, của tuổi trẻ chính là do lẽ đó.

Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 2

Nếu cần tìm một bài thơ bộc lộ rõ nhất về phong cách của Xuân Diệu thì đó có phải là “Vội vàng”. Thi phẩm này đã nói với chúng ta cái cảm xúc vồ vập với cuộc đời của tuổi trẻ. Thơ Xuân Diệu bao giờ cũng vội vàng, cuống quýt, nó là những cung bậc rạo rực băn khoăn vì thế mà khi vui cũng như khi buồn đều thấy nống nàn, tha thiết. (ý Hoài Thanh)

Người ta thường nói “Vội vàng” là bản tự bạch đầy đủ nhất về phong cách sống của Xuân Diệu. Vì thế mà tác phẩm có màu sắc luận đề, có thể diễn đạt bài văn nghị luận bằng thơ này như sau: Trần gian rất đẹp, tôi muốn giữ lấy nó. Nhưng quy luật của thời gian của tạo hóa không đê cho tuổi trẻ vĩnh hằng. Cho nên muốn sống nhanh hơn trong mỗi giây, mỗi phút của cuộc đời ta cần phải sống vội vàng hơn.

Cảm nhận thời gian và tuổi trẻ trôi đi không lấy lại được chính là một tư duy triết học từ hàng ngàn năm nay, nên vấn đề Xuân Diệu nêu ra trong bài thơ này không lạ. Nhưng cái mới của nó chính là sự diễn đạt bằng thơ ca qua những biến tấu của trái tim đầy cảm xúc vui buồn với cuộc đời, với tình yêu, với tuổi trẻ.

Bốn câu thơ mở đầu nhà thơ xưng “tôi” và tuyên bố muốn tước đoạt cái quyền của Tạo hóa để những gì thuộc về sự sống tươi đẹp phải là vĩnh cửu.

“Tôi muốn tắt nắng đi 

Cho màu đừng nhạt mất; 

Tôi muốn buộc gió lại 

Cho hương đừng bay đi.”

Sắc và hương ở đây là sự cảm nhận của thị giác và khứu giác. Sắc và hương là những báu vật của sự sống tươi đẹp này. Sau hai tiếng “tôi muốn” là hai động từ mạnh mang thanh trắc là “tắt” và “buộc”. Cùng với thể thơ ngũ ngôn rất ngắn gọn, lời tuyên bố của Xuân Diệu thật đĩnh đạc, cao giọng và nghiêm trọng.

Đoạn thơ sau là những câu thơ tám chữ, Xuân Diệu như dắt chúng ta đồng hành vào khu vườn thiên đường trần thế của sự sống. Nhà thơ chỉ cho mọi người thấy những báu vật mà tạo tạo hóa ban phát cho trần gian, cho tuổi trẻ hạnh phúc.

Sự cảm nhận đầu tiên là hạnh phúc của ong và bướm:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật:

“Tuần tháng mật” là không gian riêng dành cho ong và bướm. Ba tiếng ấy còn gợi cho ta thời gian hạnh phúc trong quan hệ lứa đôi: tuần trăng mật. Ngoài ra nó còn gợi cho một niềm hạnh phúc tươi vui, tràn đầy vì lúc nào ong và bướm cũng hút đầy mật ngọt. Điều này gợi lên sự ngọt ngào trong quan hệ lứa đôi.

Câu thơ tiếp theo lại tạo nên quan hệ sở thuộc mới:

“Này đây hoa của đồng nội xanh rì”

Tai sao đồng nội không xanh ngọc, xanh tơ mà lại là “xanh rì” màu xanh của sự già nua, tàn lụi? “Đồng nội xanh rì” đang sở hữu những bông hoa thơm hương tươi sắc. Miêu tả hoa mọc trên đồng nội ấy tức là nhà thơ muốn nói Tạo Hóa đang cho mùa xuân trở lại.

“Này đây là của cành tơ phơ phất”

Câu thơ này là một bản nhạc dịu dàng, lá cành đẫm chất xuân tình bởi vần thơ liền nhau “tơ phơ”, bởi sau vần “ơ” ấy là “phơ phất”. Đây là một không gian rất riêng, rất khác lạ, gợi cho ta quan hệ lứa đôi tuyệt vời hạnh phúc.

“Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”

Dường như trên “càng tơ phơ phất” ấy yến anh được là trọn vẹn của nhau, được sở hữu trọn vẹn khúc tình si mà tạo hóa ban phát. Đó là tiếng hót mà đôi chim kia không ngờ rằng nó nồng nàn đến thế.

Đoạn thơ lặp lại hai tiếng “này đây”, khi thì ở giữa câu thơ, khi thì ở đầu câu thơ. Nó tạo cảm giác cho ta thấy nơi này hạnh phúc, nơi kia hạnh phúc. “Này đây” còn cho ta một ấn tượng vội vàng, hãy đi nhanh hơn nữa bởi vì khu vườn này còn nhiều điều kì thú và hấp dẫn hơn.

Rất nhiều ý kiến đã cắt nghĩa và hiểu là ánh mặt trời chói lọi của buổi bình minh tháng giêng mùa xuân khiến cho đôi mắt của cô gái phải chớp hàng mi. Thật ra cái độc đáo là Xuân Diệu lại nói điều ngược lại. Bình minh không phải phát ra từ mặt trời mà từ đôi mắt của người thiếu nữ. Đôi mắt ấy khẽ chớp hàng mi và nắng ấm dào dạt đã tuôn đầy khắp khu vườn tình ái. Hiểu như thế này chúng ta mới thấy rõ cái quan niệm thế là con người, cái giá trị nhất trên đời cũng là con người. Vì vậy mà đôi mắt con người, cái giá trị nhất trên đời cũng là con người. Vì vậy mà đôi mắt của người thiếu nữ “chớp hàng mi” đã khiến cho thần Vui đến “gõ cửa” đem hạnh phúc cho muôn loài vào mỗi buổi sáng mai.

“Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa”.

Con người đẹp nhất trong tuổi trẻ và tuổi trẻ lại đẹp nhất trong tình yêu. Vì thế mà nhà thơ đã viết một câu thơ đầy gợi cảm thật khó lí giải hết bằng lời:

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Tháng giêng là một khái niệm thời gian vậy mà ta lại cảm nhận bằng vị giác: nó rất ngon. Người đọc càng bất ngờ hơn khi cái ngon ấy lại là giá trị tinh thần gợi cho ta một tình yêu dẫu đắm đuối. “Cặp môi gần” là một nụ hôn sắp sửa, nó đưa người ta vào một thế giới đắm say hơn. Tháng giêng khởi đầu cho mùa xuân. Mùa xuân khởi đầu cho một năm. Tuổi trẻ khởi đầu cho một đời người, nụ hôn khởi đầu cho một tình yêu đắm say… Những sự khởi đầu bao giờ cũng tinh tế và hạnh phúc.

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”

Cảm nhận được hạnh phúc của tuổi trẻ được sống trong khu vườn thiên đàng trần thế, nhà thơ đã reo lên như trẻ con: “Tôi sung sướng”. Nhưng ngay lập tức niềm vui ấy không trọn vẹn bởi nhận thức của lí trí “nhưng vội vàng một nữa”.

Nếu đoạn thơ đầu là tiếng nói bồng bột của con tim thì đoạn thứ hai lại là tiếng nói tĩnh táo của lí trí. Nếu đoạn thơ đầu là say mê, cởi mở thì đoạn thơ thứ hai nó đục tới, đau buồn, trầm lắng.

Ba câu thơ tiếp theo xuất hiện nhiều từ “xuân”. Phía bên này của hai tiếng “nghĩa là” có một mùa xuân tràn đầy sức sống, còn bên kia thì ngược lại.

“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”

Cuối cùng là mối liên tưởng giữa « xuân » và « tôi », giữa trần gian « xuân » của vũ trụ và cái « tôi » tuổi trẻ trong cuộc đời.

« Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất »

Trong quan điểm của Xuân Diệu, thì đời người có ý nghĩa nhất là tuổi trẻ. Nếu như tuổi trẻ mất thì cuộc đời con người như đặt dấu chấm hết. Sau khi có những nhận thức tỉnh táo về thời gian trôi đi không lấy lại bao giờ của kiếp người, nhà thơ đã có những câu thơ trách hờn với tạo hóa.

« Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, 

Không cho dài thời trẻ của nhân gian; 

Nói lam chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, 

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”

Tiếp theo là những câu thơ độc thoại với nỗi buồn trấm lắng mỗi lúc một bất lực, mỗi lúc mỗi ganh tị với tạo hóa.

“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, 

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Các câu thơ sau đây là những âm bản của bức tranh về vườn địa đàng đầy hình ảnh, đầy âm nhạc ở phần đầu:

Khi nói tới:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”

Ta nghĩ đến:

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.

Không còn cái vị nồng nàn, ngọt ngào của hạnh phúc mà là vị chia phôi, rướm máu. Đã chia phôi chúng ta lại gặp tiếp hai tiếng “tiễn biệt”.

“Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”

Dường như cả khu vườn náo nức, hạnh phúc kia giờ chỉ còn là ảo ảnh. 

Hai câu thơ:

“Con gió xinh thì thào trong lá biếc, 

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?”

Như một sự tương phản với câu thơ:

“Này đây lá của cành tơ phơ phất”

Ngọn gió khiến cho lá cành đều luyến ái “tơ phơ phất”, giờ chỉ còn thì thào sỡ sệt, nó phải mang một nỗi hờn rời bỏ lá cành kia. Hai dòng thơ:

“Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, 

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Gợi cho ta khúc tình si say đắm của yến anh không hề bận lo toan với thời gian đang trôi đi quanh mình.

“Của yến anh này đây khúc tình si”

Càng cảm nhận sự chia phôi, tiễn biệt, bay đi càng cảm nhận một “độ phai tàn sắp sửa”. Trái tom tuổi trẻ ấy đã rơi vào khủng hoảng, nỗi buồn đau làm lòng người xót xa.

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

Câu thơ đã đưa ta đến với vô vọng, với bi quan tuyệt đối. Thế nhưng nhà thơ đã tìm ra một giải pháp chống lại quy luật nghiệt ngã của thời gian. Đó là:

“Mau đi thôi! Mùa xuân chưa ngả chiều hôm”.

Đây là giải pháp tích cực nhất để sử dụng cái quỹ thời gian hạn định mà tạo hóa không hề thay đổi với thế gian. “Vội vàng” nghĩa là sống chất lượng hơn, chủ động tận hưởng những niềm vui chính đáng mà Tạo Hóa ban tặng. “Vội vàng” nghĩa là tăng tốc độ cho những hồng cầu trong giọt máu của tuổi trẻ luôn chuyển nhanh hơn.

Nếu ở phần đầu nhà thơ tuyên bố “Tôi muốn tắt…”, “Tôi muốn buộc…” thì ở đây nhân danh cái “ta”, nhà thơ đã công khai một ước muốn:

“Ta muốn ôm…”

Để biểu hiện động thái vội vàng Xuân Diệu đã sử dụng dày đặc những động từ mỗi lúc một nhanh hơn. Từ chiếm hữu nhà thơ muốn chinh phục những gì mình có trong tay.

"Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn: 

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, 

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, 

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều 

Và non nước, và cây, và cỏ rạng, 

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, 

Cho no nê thanh sắc của thời tươi”.

Bắt đầu là “ta muốn ôm”, tiếp theo là “ta muốn riết”, rồi đến “say” từ cái chuếnh choáng hởi men của tình yêu mà muốn thu cả tinh hoa của đất trời trong một nụ hôn. Và kết thúc là thưởng thức mùa xuân của trần gian bằng một hành động rất bạo liệt thông qua một tuyên ngôn khoan nhượng.

“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Xuân Diệu khuyên chúng ta hãy sống với trần gian với những gì Tạo Hóa ban tặng. Chúng ta không chỉ ngắm chúng mà phải sống với chúng. Hãy sống vội vàng chứ không nên chuẩn bị sống vội vàng.

Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 3

… "Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"…

(…) Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn…".

Mỗi lần đọc những dòng thơ trên, nhạc điệu,vần điệu "Vội vàng" cứ ngân vang dào dạt mãi trong lòng ta, tình yêu đời, yêu sống như tát mãi không bao giờ vơi cạn… Cảm thức về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ… như những lớp sóng vỗ vào tâm hồn ta. "Vội vàng" là bài thơ độc đáo nhất, "mới nhất" của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập "Thơ Thơ" (1933-1938) – đóa hoa đầu mùa đầy hương sắc làm rạng danh môt tài thơ thế kỉ.

Bài thơ "Vội vàng" nói lên nhịp điệu sống, khát vọng sống của tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết trân trọng, quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ, với mùa xuân và với thời gian.

Trong "Tiểu dẫn" về bài thơ "Vội vàng" này (Văn 11) Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh viết:

"Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống".

Thiên nhiên rất đẹp đầy hương sắc của hoa trên "đồng nội xanh rì", của lá "cành tơ phơ phất". "Tuần tháng mật" của ong bướm. "Khúc tình si" của yến anh. "Và này đây ánh sáng chớp hàng mi". Chữ "này đây" được 5 lần nhắc lại diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng "tắt nắng đi" và "buộc gió lại". Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.

Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó là lúc "thần vui hằng gõ cửa". Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, "ngon như cặp môi gần". Một chữ "ngon" chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa mới lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.

Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi – cái tuổi thanh niên bừng sáng. Nhưng thi sĩ đã "vội vàng một nửa", một cách nói rất thơ – chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, rất mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn "vội vàng":

"Tháng giêng ngon như cặp môi gần

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân".

Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoa niên mà đã "vội vàng một nửa".. cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.

Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta. Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời gian một đi không trở lại. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng: tương phản đối lập để chỉ ra cái "lượng trời" cho một đời người chỉ có một thời xuân xanh mà tuổi trẻ một đi qua không bao giờ trở lại:

"Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại…".

Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới – qua, non – già, rộng – chật, tuần hoàn – bất phục hoàn, vô hạn – hữu hạn – để khẳng định một chân lí – triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại, phải quý tuổi xuân.

Cách nhìn nhận của thi nhân về thời gian cũng rất tinh tế độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và đã hé lộ mầm tương lai, cái đang có lại đang mất dần đi…

Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn "chia phôi", hoặc "tiễn biệt", nên phải "hờn" vì xa cách, phải "sợ" vì "độ phai tàn sắp sửa". Cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương "vội vàng" của tạo vật. Với Xuân Diệu hầu như cuộc sống nơi "vườn trần" đều ít nhiều mang "bi kịch" về thời gian:

"Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

 Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt".

Cũng là "gió", là "chim"… nhưng gió khẽ "thì thào" vì "hờn", còn "chim" thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì "sợ"! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lí giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:

"Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi

Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?"

Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngả chiều hôm", nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

"Chẳng bao giờ / ôi / chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi / mùa chưa ngả chiều hôm".

Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm "Thơ tiếc cảnh":

– "Xuân xanh chưa dễ hai phen lại

Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên".

(Bài số 3)

– "Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm".

(Bài số 7)

Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong "Vội vàng" về màu thơi gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Thật yêu đời, thật ham sống.

Mở đầu bài thơ là cái tôi hăm hở "tôi muốn tắt nắng đi". Kết thúc bài thơ là "ta", là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong một đời người, trong dòng chảy thời gian: sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả gợi lên cái ham hố, yêu đời. Ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: "Ta muốn ôm", "Ta muốn riết… Ta muốn say… Ta muốn thâu…":

"Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong mỗi cái hôn nhiều

Và non nước, và cây và cỏ rạng".

Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật "vắt dòng" với ba từ "và" đồng hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc. Say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng… đều là nỗi niềm khao khát của thi nhân:

"Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người!".

Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, sống ích kỉ trong hưởng thụ. "Vội vàng" thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau bài thơ "Vội vàng" ra đời, nhiều câu thơ của Xuân Diệu vẫn còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống "Vội vàng" như vậy. Với hơn 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã góp phần làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.

Bài thơ "Vội vàng" cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Có cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. "Vội vàng" tiêu biểu nhất cho "Thơ mới", thơ lãng mạn 1932-1941.

Nhà thơ Xuân Diệu đã đi vào thế giới vĩnh hằng những tao nhân mặc khách, nhưng ta vẫn cảm thấy ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca:

– "Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"

– "Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!

   Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…"

(Giục giã)

Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 4

Xuân Diệu là nhà thơ khát khao giao cảm với đời đến cuống quýt say mê cuồng nhiệt. Bài thơ được rút ra từ tập thơ thơ (1938) tập trung cao nhất khát vọng sống mãnh liệt ấy. Ở bài thơ thi sĩ đặt khát vọng giao cảm với tuổi trẻ và xuân tình. Qua đó bộc lộ một cảm xúc triết học, một quan niệm nhân sinh mới mẻ. Đúng như lời nhận xét của Hoài Thanh: “ Xuân Diệu là nhà thơ say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời sống vội vàng cuống quýt muốn tận hưởng tất cả những gì của nhan sắc trời ban, khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết”.

Mở đầu bài thơ là bốn câu thơ ngũ ngôn chắc nịnh như một lời khẳng định:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Xuân Diệu vốn là người phóng túng từng ước mình như phấn thông vàng làm đẹp không gian, để gieo rắc tình yêu đi khắp nơi mà ở đây chàng thi sĩ lại đang đắn đo dè xẻn từng chút nắng chút gió, tằn tiện hương sắc trời ban tặng. Phải chăng nhà thơ nhận ra cuộc sống là tuyệt diệu nhưng mỏng manh qua nên cố níu giữ bằng mọi cách?. “nắng” và “gió” vốn là những hiện tượng của tự nhiên nó có quy luật riêng. Vậy mà ở đây thi si lại đòi đoạt quyền tạo hóa để tắt nắng buộc gió lại để giữ lại những hương sắc trời ban. Các động từ “tắt nắng” “ buộc gió” thể hiện khát khao níu giữ thiên nhiên níu giữ cuộc đời của Xuân Diệu. gió đâu có thể buộc được, nắng làm sao có thể tắt. Dẫu biết rằng không thể nào đoạt được quyền tạo hóa nhưng bằng tình yêu thiên nhiên cuộc đời nhà thơ vẫn “tham lam” thể hiện nguyện vọng của mình. Điệp từ “tôi muốn” càng thể hiện rõ ước muốn của nhà thơ. Phải chăng một đời người với ông là chưa đủ để tận hưởng hết những điều tuyệt vời của cuộc sống ấy.

Đến những câu thơ tiếp theo nhà thơ vẽ lên một bức tranh đầy màu sắc của thiên nhiên đất trời. Có thể nói cuộc đời trước mắt nhà thơ giống như một thiên đường trên mặt đất:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Với cặp mắt xanh non biếc rờn Xuân Diệu đã nhìn cuộc sống thật nên thơ nên nhạc, đáng yêu, đáng sống, đáng đắm say. Chất nhạc chất họa trong thơ ông tấu lên một bữa tiệc trần gian một thiên đường trên mặt đất với biết bao nhiêu là cảnh vật. bao nhiêu là màu sắc hấp dẫn lôi cuốn. đó là một khu vườn xuân ngập tràn hương sắc của đồng nội xanh rì, của lá tơ phơ phất. Không những thế bức tranh khu vườn ấy còn có âm thanh của tiếng chim yến anh hót ngọt ngào, nó tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, âm thanh của niềm vui mỗi buổi sáng sớm đến. Thêm nữa bức tranh ấy còn có cả tình yêu đôi lứa khi hiện lên trên hình ảnh của ong bướm với tuần tháng mật. Đó là niềm hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ trong tuần trăng mật đầy yêu thương. Điệp cấu trúc này đây tác giả như muốn mời gọi, bày ra, phô ra những gì đẹp nhất trên cõi hồng trần này. Đặc biệt là hình ảnh tháng giêng ngon như một cặp môi gần cho thấy sự đẹp tuyệt vời lôi cuốn ấy. Tháng giêng trong mắt nhà thơ giống như một bờ môi căng mộng của người con gái. Ta thấy quan niệm về cái đẹp của Xuân Diệu rất tiên tiến. nếu như ngày trước thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người thì giờ đây con người trở thành thước đo vẻ đẹp cho thiên nhiên. Có thể nói đây là một câu thơ đắt giá của nhà thơ Xuân Diệu.

Qua đây ta thấy một thiên đường được nhà thơ vẽ lên trước mắt chúng ta thật hấp dẫn lôi cuốn đến kì diệu. Không những thế ẩn sau những câu thơ ấy ta thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu đời tha thiết da diết của thi sĩ.

Yêu thiên nhiên như thế nên Xuân Diệu không thể dấu được cảm xúc của mình. Đó là một xúc vui sướng nhưng lại vội vàng một nửa, hạnh phúc ấy làm cho tác giả phải cố gắng sống nhanh nhất có thể để tận hưởng hết:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hồi xuân”

Dấu chấm giữa dòng như sự ngăn giữa hai thái cực của cảm xúc. Tác giả hạnh phúc nhưng cũng vội vàng để nhanh chóng tận hưởng cho hết những gì tươi đẹp nhất của cuộc sống này. Nhà thơ không chờ nắng hạ mới hồi xuân:

“Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi xuân đã đến lâu rồi”

Và trước sự gấp gáp ấy nhà thơ nhận ra được mọt chân lí, một quy luật bất biến mà chúng ta không thể nào làm khác được:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và tôi xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”

Theo quan niệm truyền thống thì thời gian luân chuyển tuần hoàn bốn mùa xuân, hạ thu đông, lấy sinh mệnh vũ tru làm thước đo thời gian. Chính vì thế nên con người sống an nhiên tự tại. Còn theo Xuân Diệu thì thời gian là một tuyên tính một đi không trở lại nữa. Nhà thơ lấy tuổi trẻ một khoảng thời gian ngắn ngủi nhất trong đời làm thước đo thời gian. Chính vì thế mà nhà thơ sống vôi vàng vì tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.  những hình ảnh thơ đối lập kết hợp với những từ nhằm khẳng định những sự thật hai năm rõ mười “nghĩa là” và giọng điệu thơ như tranh luận hùng biện ta thấy rõ được tâm trạng của nhà thơ. Đó là một tâm trạng hoài nghi âu lo, tiếc nuối vì nhìn đâu cũng thấy sự chia phôi.

Đoạn thơ cuối tác giả thể hiện điệu sống vội vàng và khát khao cuồng nhiệt của nhà thơ:

“Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn diết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng
 Cho chếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”

Đại từ nhân xưng ta được nhắc đến nhiều lần thể hiện cái tôi cá nhân bản ngã của nhà thơ. Một tình cảm chủ quan được phô ra trước mắt mọi người. Nào là “mây đưa” “gió lượn”, nào là “sự sống mơn mởn”, rồi lại “ cánh bướm” tình yêu, nụ hôn. Tất cả những thứ ấy được gắn liền với những động từ mạnh như “ôm”, “diết” “say” thậm chí là “cắn” kết hợp với những tính từ chỉ mức đọ cao nhất như “ chếnh choáng”, “đã đầy” rồi lại no nê để thể hiện một sự cuồng nhiệt với cuộc đời của nhà thơ. Những cảnh thiên nhiên ấy làm cho nhà thơ yêu mến đến mức muốn cắn.

Qua đây ta thấy vội vàng giống như một lời tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân Diệu mà mỗi câu mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say, cuống quýt của nhà  thơ. Bài thơ là bức thông điệp thẩm mĩ mà thi nhân muốn gửi tới những tri âm tri kỉ ở mọi phương trời, mọi thời khắc, mọi thế hệ: hãy yêu thương sự sống hãy biết hưởng thụ hạnh phúc trần thế, quý trọng tuổi thanh xuân, sống cao độ từng phút từng giây cuộc đời.

Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 5

Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và bằng việc “hăm hở” làm thơ tình! Nhắc đến Xuân Diệu, sẽ thật là thiếu sót nếu không kể tên “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”, và “Thơ duyên” trong tuyển tập “Thơ thơ” – đứa con đầu lòng mà “ông hoàng thơ tình” đã ban tặng cho nhân gian

Như một cái chạm tay khẽ nhẹ vào tâm hồn những người yêu thơ, thơ Xuân Diệu nhẹ nhàng và tinh tế như chính tác giả của nó, để lại trong tâm hồn người đọc một ấn tượng đậm nết và thật khó phôi pha về sự phóng túng, giàu có mà hết sức tinh tế trong đời sống nội tâm, tâm của hồn của cái “TÔI” trữ tình Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu như một khúc tình si say đắm ngọt ngào…thật đến từng hơi thở!

Những vẻ đẹp của mùa xuân đâu chỉ của riêng Xuân Diệu. Từ nghìn năm tước, các bậc tiền bối đã có những vần thơ tràn trề về tình yêu đói với mùa xuân và cuộc sống. Nhưng yêu đến mức có những ham muốn táo bạo và khác thường như Xuân Diệu, đó là điều thật mới mẻ, thật mãnh liệt. Đặc biệt là cái cách nói của nhà thơ. Trong thơ ca trung đại, nét nổi bật là tính phi ngã, cái tôi trữ tình thường ẩn náu sau những hình tượng thiên nhiên. Trong khi đó, Xuân Diệu bộc lộ ý thức về cái tôi trữ tình thật táo bạo:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”

Nói Xuân Diệu là một nhà thơ mới, quả không sai! Nếu như trong thơ ca của những thi sĩ lãng mạn ngày xưa, thiên đường là chốn bồng lai tiên cảnh, là nơi mây gió trăng hoa, thì trong quan niệm thơ của Xuân Diệu, cuộc sống trần gian mới thực là nơi hạnh phúc nhất, là nơi xinh đẹp và căng mọng nhựa sống nhất! Thơ lãng mạn của ông luôn có một niềm say mê ngoại giới, khác giới, một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mãnh liệt đến tràn đầy. Dường như lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông đã biến cái ham muốn “tắt nắng”, “buộc gió” trở nên quá táo bạo, đến độ lo âu trước sự thay đổi của đất trời, cảnh vật…muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả thiên nhiên với vẻ đẹp vốn có của nó. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ,đảo ngược quy luật tự nhiên, phải chăng là ông đang muốn đoạt quyền tạo hóa. Nhưng trong cái phi lí đó, vẫn có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn yêu cuộc sống. Với ông, sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kỳ diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận như một thiên đường trên mặt đất, một bữa tiệc lớn của trần gian. Nhà thơ đã cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong “Vột vàng” vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khêu gợi.

Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.”

Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra 1 thiên dường trên mặt đất.Nếu thơ xưa, các nhà thơ chỉ sử dung thính giác và thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các thi sĩ thời Thơ mới lại huy động tất cả các giác quan từ nhiều góc độ để cảm nhân vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời lúc xuân sang. Trong đoạn thơ, điệp ngữ “này đây” được sử dụng 5 lần kết hợp với lối kiệt kê khiến nhịp thơ trở nên dồn dập, là một sự chỉ trỏ ngơ ngác, ngạc nhiên, lạ lẫm, như một tiếng reo vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say trước trùng trùng điệp: Của ong bướm tuần tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất”, của yến anh là khúc tình “si”; thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn ngột đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến lạ kì, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những “món ăn” có sẵn. Những vẻ đẹp được liệt kê bằng những tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử dụng từ ngữ của Xuân Diệu – cảnh vật trong thơ ông đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Sự vật bình thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện, được trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở nên lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa cuộc đời! Thi pháp hiện đại đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng thái hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài. Cách ngắt nhịp trong đoạn thơ đầy linh hoạt, biến hoá (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình ảnh, những khung cảnh được miêu tả thật cụ thể, in đậm phong cách XD: tuần tháng mật, đồng nội xanh rì … tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say!

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân.”

Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời – vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng, tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh “thần vui hằng gõ cửa” gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại hy lạp xưa. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:”Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về thời gian “tháng giêng” so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính nhục cảm. Nhưng sao câu thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế. Cái mới trong thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sư kết hợp hài hoà giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến những suy tư và quan niệm nhân sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra cái quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian: “tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn …” Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành 2 câu chứa đựng 2 tâm trạng, 2 cảm xúc trái ngược nhau: sung sướng-vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là “vội vàng một nửa”. Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội càng “Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân.” Vì sao vậy? Bởi với Xuân Diệu:

“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hòan,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,”

Nhưng quan niệm của Xuân Diệu vừa phi lí, vừa hợp lí, vừa quen lại vừa lạ. Quen vì người xưa đã từng thở dài “xuất thì bất tái lai”. Và là bởi đó là tiếng nói của một cái tôi ham sống, coi mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là tất cả sự sống của mình. Biết rằng mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, thi sĩ bâng khuâng, tiếc nuối … Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng mang theo nỗi buồn “chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”. Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian: “Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?” Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi mộy khoảnh khắc qua là mất đi vĩng viễn… Trái tim Xuân Diệu đa cảm quá và tâm hồn nhà thơ quá đỗi tinh tế trước bước đi của thời gian. Con người ấy lúc nào cũng “chẳng bao giờ nữa…” Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

Trong đoạn thơ này, cái giọng điệu sôi nổi, bồng bột, đắm say của Xuân Diệu thời “thơ thơ” thể hiện đầy đủ nhất. Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một cách chân thành. “Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ – mà vạn vật là muôn đá nam châm.” Từng làn sóng ngôn từ lúc đan chéo nhau, lúc lại song song thành những đợt sóng ào ạt vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. So với đoạn thơ trên, cách tự xưng của nhân vật trữ tình thay đổi. Phần đầu bài thơ, thi sĩ xưng “tôi” – cái tôi đơn lẻ đang đối thoại với đồng loại. Đến đây, thi sĩ xưng ta một cách đầy tự tin nhưng đã có thêm rất nhiều đồng minh cùng đứng lên đối diện với sự sống:

”Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,”

“Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của

0