25/05/2017, 00:53

Bình giảng bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu – Văn mẫu lớp 11

Đánh giá bài viết Bình giảng bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi môn Văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Đà Nẵng Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biếu nhất cúa phong trào thơ mới 1932-1945. Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình Hoài Thanh đã viết: ...

Đánh giá bài viết Bình giảng bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi môn Văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Đà Nẵng Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biếu nhất cúa phong trào thơ mới 1932-1945. Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình Hoài Thanh đã viết: “Với Thể Lữ, thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt ...

Bình giảng bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi môn Văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Đà Nẵng

Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biếu nhất cúa phong trào thơ mới 1932-1945. Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình Hoài Thanh đã viết: “Với Thể Lữ, thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới”. Bài thơ “Vội vàng” đã minh chứng cho nhận xét thiên tài đó.

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

Bốn câu thơ mở đầu  nói cái ước muốn giữ mãi vè đẹp cùa những chốn  trần  gian. Rồi nhà thơ cầm tay chúng ta và náo nức chỉ những cảnh thật đáng yêu đang phô bày ra trước mắt:

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

 Của yến anh này dây khúc tình si

 Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa.

Một bức tranh tuyệt tác của Tạo hóa có màu sắc tươi mát (xanh rì), có âm thanh vui (khúc tình si) và chứa chan ánh sáng. Trái đất ta đang sống quả là một Thiên đường! Và trong Thiên đường đó, đáng yêu nhất là hình ánh:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Nghệ thuật xưa coi thiên nhiên là chuẩn của cái đẹp, cho nên Nguyễn Du viết: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”.

Vẻ đẹp của đôi mắt nàng Kiều được so sánh với làn nước mùa thu; lông mày nàng Kiều được so sánh với nét núi thanh tú của mùa xuân. Nghệ thuật Xuân Diệu ngược lại, coi con người là chuẩn của cái đẹp, cho nên mới có câu thơ xuất thần đó đem so sánh thiên nhiên với con người.

Đang vui. nhà thơ bỗng giật mình:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”.

Câu thơ bị bẻ gãy làm hai, nói lên cái lo sợ của con người khi nhận ra một sự thật đau đớn:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Xuân ờ đây có hai nghĩa: Vừa là mùa xuân – mùa đẹp nhất trong năm. vừa là tuổi xuân – tuổi đẹp nhất của đời người. Cụm từ “Nghĩa là” lặp lại ba lần như một sự hoảng hốt khi hiểu ra một qui luật: Tuổi xuân chỉ có một thời; con người không thế trẻ mãi đề tận hưởng niềm vui sướng của chôn “vườn trần” này.

Nhà thơ lên tiếng hỏi cảnh vật :

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Thì ra không chỉ thi nhân mà thiên nhiên tươi thắm kia cũng đang tiếc nuối mùa xuân sẽ đi qua, sẽ trôi qua, thời gian một đi không trỏ lại.

Trước quy luật nghiệt ngã đó của tạo hóa, con người phải làm gì? Cái ước mong “tắt nắng”, “buộc gió" là không thế thực hiện được. Thi nhân đã gợi cho chúng ta một cách sông mới mẻ:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muôn riết mây đưa và gió lượn

Ta muôn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã dầy ánh sáng

Cho no né thanh sắc của thời tươi.

–   Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Đây là đoạn thơ nồng cháy nhất, hay nhất của bài thơ vì cảm xúc của thi nhân đã đạt đến cao trào.

Tác giả đã nhân cách hóa thiên nhiên, làm cho thiên nhiên hiện lên như một người đẹp đầy vẻ hấp dẫn. Cách dùng đại từ đã khác so với phần mở đầu trên dùng đại từ nhân xưng ngôi t hứ nhất số ít (tôi)  một cách dè dặt  coi đây lại dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số nhiều vì qua sự truyền cảm của bài thơ đã hòa điệu tâm hồn cùng bạn đọc. Sự “vội vàng” của thi nhân cũng phát triển dần qua cách sử dụng các động từ: “ôm” đã thân thiết, nhưng “riết" còn mạnh mẽ hơn đến “say” thì đã nồng nàn, và đến “thâu” thì đã thu tất cả mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu vào trong tâm hồn mình.

Câu kết đã gói trọn tâm tình của thi nhân:

“Hỡi xuân hồng, ta muốn căn vào ngươi!”

Nghệ thuật làm thơ khó nhất là viết câu cuối cùng. Nó phải nâng cao xúc cảm phải chứng tỏ rằng sự vận động của tứ thơ đến đây là hết không thể viết thêm một câu nào nữa. Xuân Diệu đã thật cao tay khi viết câu thơ trên. “Cần” là tột đỉnh cùa sự cuồng nhiệt, sự nồng cháy cùa cảm xúc. Câu thơ cảm thán như một tiếng kêu sung sướng, thỏa mãn vì tâm hồn đã “chếch choáng”, "đã đầy”, đã “no nê” khoái lạc của thiên đường trên mặt đất.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều điệp từ: “ta muốn”, “và”, “cho” làm cho nhịp thơ đoạn cuối trở nên dồn dập, diễn đạt rất đúng tâm trạng cúa con người “vội vàng”.

Thi phẩm này quả là một bài thơ hay, rất tiêu biểu cho phong cách tài hoa, phong tình lãng mạn của Xuân Diệu — nhà thơ mới nhất của phong trào thơ mới.

“Vội vàng’’ bộc lộ một nhân sinh quan lành mạnh. Đó là tình yêu đời, là cách sống chân thành, sống hết mình vì một cuộc đời dầy ý nghĩa.

Quả thật, “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chôn nước non lặng lẽ này’’ (Hoài Thanh).

Bình giảng bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu – Bài làm 2

Sau gần 50 năm làm thơ, Xuân Diệu đã để lại cho thơ Việt Nam hàng chục tập thơ với trên dưới 1000 bài thơ thấm thìa tình yêu cuộc sống nồng nàn. Nhưng, nếu cần dẫn ra một bài thơ tiêu biểu cho thơ Xuân Diệu, thơ tình yêu ấy trong thơ Xuân Diệu, đó sẽ là một bài thơ trong tập Thơ thơ, được sáng tác trong những năm mười tám đôi mươi tươi đẹp của nhà thơ: bài thơ Vội vàng. Đúng như tên gọi, Vội vàng là tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ tự thấy mình phải vội vàng, phải gấp gáp nhận lấy.

Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn gọn, mạnh mẽ như lời tuyên bô" về khát vọng của mình:

Tôi muốn tắt nắng di Cho màu dừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương dừng bay di.

Tắt nắng đi ư? Buộc gió lại ư? Đó là những điều không ai có thể làm được, những khát khao thật là phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí đôi với trái tim nhà thơ, bởi đó là một trái tim đầy khát khao mãnh liệt, muôn sông đến trọn vẹn chữ sông, muốn giữ mãi cho mình những hương, những sắc của cuộc đời. Mà cuộc đời thì đẹp đẽ biết chừng nào, quý giá biết chừng nào! Trong cuộc sống này, tất cả đều kì diệu, bởi mỗi sự vật dù có nhỏ bé đến đâu cũng hiến cho đời cái tuyệt diệu của mình. Hãy nghe Xuân Diệu kể:

Của ong bướm này dây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh ri Này dây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.

Bướm ong thì có tuần tháng mật, đồng nội thì có muôn hoa, cành tơ thì có muôn lá, mắt người thì có ánh sáng… Những câu thơ của Xuân Diệu nhanh gấp trong một nhịp điệu dạt dào. Không thể nào kế cho hết, đếm cho xuể vẻ đẹp của đời. Ai bảo cuộc đời đáng chán? Cuộc đời đáng sông biết bao! Với Xuân Diệu, cuộc sống lúc nào cũng tràn trề niềm vui, người ta gặp niềm vui hết ngày này qua ngày nọ. Niềm vui như một vị thần độ lượng ngày nào cũng đến gõ cửa từng nhà:

Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa.

Đó là cuộc đời trong độ đẹp nhất của cuộc đời, đó là mùa xuân. Phải nói rằng, trong thơ Việt Nam, chưa có ai cảm nhận mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Có một điều đáng lưu ý, bởi đây là một đặc điểm của thơ Xuân Diệu: Xuân Diệu không lấy thiên nhiên làm chuẩn để so sánh với vẻ đẹp con người như ta vẫn gặp trong thơ cố mà lại thây vẻ đẹp con người làm

chuẩn để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu ta gặp trong thơ Nguyễn Du, nhan sắc của Thuý Vân:

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Còn Xuân Diệu thì: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Con người bao giờ cũng là điều tuyệt diệu.

Có một cuộc sống đẹp đẽ như vậy để sống, có những sắc màu tuyệt diệu như vậy để tận hưởng, con người ta sẽ sung sướng biết bao. Tuy vậy, đến đây, như một bản đàn đang vút cao bỗng chùng xuống, những câu thơ của Xuân Diệu cũng chùng xuống. Xuân Diệu nói:

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.

Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui sướng không được trọn vẹn. Bởi vì sao? Bởi vì Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy sẽ ngắn ngủi biết bao:

Tôi không chờ nấng hạ mới hoài xuân Xuân dương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.

Xưa nay, người ta chỉ tiếc thời gian khi nó đã trôi, chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trờ thành quá khứ, chỉ tiếc mùa xuân khi nó đã không còn. ở đây, với sự nhạy cảm đến lạ lùng của nhà thơ, của người yêu cuộc sống  đốn độ đấm say, Xuân Diệu đã tiếc mùa xuân cả khi mùa xuân đang còn, ngay cả khi mùa xuân mới đến. Nhà thơ biết rằng mùa xuân sẽ trôi qua nhanh, mà hình như với những gì quý giá, với những vẻ đẹp, nó còn trôi nhanh gấp bội, nhanh đến khủng khiếp. Cái sắp tới rồi sẽ đi qua, cái đang non trẻ, thắm tươi rồi sẽ già nua, tàn úa. Điều ấy có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với Xuân Diệu:

Và xuân hết nghĩa là tôi củng mất

Câu thơ của Xuân Diệu thật là buồn bã, bởi nhà thơ vừa như phát hiện một điều bi thảm cho mình: mùa xuân sẽ trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua, mà khi tuổi trẻ trôi qua thì cuộc đời nào có ý nghĩa gi nữa. Quý giá nhất của cuộc đời, của đất trời, là mùa xuân, quý giá nhất của con người là tuổi trẻ.

Con người khao khát vô tận nhưng cuộc sống lại có quy luật của nó, chặt chẽ vô cùng, nghiệt ngã vô cùng.

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian.

Thời gian thì vô hạn nhưng đời người thì hữu hạn. Trong cái hữu hạn ấy, cái hữu hạn của con người càng nhỏ bé hơn nữa, nhỏ bé đến tội nghiệp. Có lẽ như bao người ớ đời, nhà thơ đã từng lí luận với mình rằng mùa xuân của cuộc đời là bất tận, mùa xuân đi, mùa xuân lại đến. Nhưng tự lí luận như thế, không những người ta không tự an ủi được mình, mà chí càng xót xa hơn cho cái hữu hạn nhỏ bé của chính mình:

Nói làm chi ràng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chảng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng con tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.

Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý, chỉ đẹp khi con người có thể biết được, hưởng được cái mùa xuân ấy. Không có con người, hay con người không được hưởng, thì mùa xuân có đó mà làm gì? Bởi vậy, những câu thơ của Xuân Diệu chuyển sang một giọng buồn bã.

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thẩm tiễn biệt Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay di Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sấp sửa.

Tất cả đều buồn bã, tất cả đều mất hết V vị, chỉ còn “rớm vị chia phôi” với “than thầm tiễn biệt”, chỉ còn “hờn nỗi phải bay đi”, chỉ “sợ dộphai tàn sắp sửa”. Trong thơ Việt Nam cả phong trào Thơ mới, chưa ai có giọng thơ nuôi tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống thiết tha đến như Xuân Diệu. Cũng những nét ấy, sắc màu âm thanh ấy, ở đoạn trôn náo nức, rạo rực là thế, mà ở đoạn này thì buồn thương ngậm ngùi, xót xa biết bao, tưởng chừng Xuân Diệu hình dung thây rõ ràng mùa xuân đã mất, tuổi trẻ đã qua, nhà thơ đã kêu lên một cách tuyệt vọng:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa

Nỗi đau đớn phải thật chân thành để Xuân Diệu có tiếng kêu như thế. Còn làm được gì nữa bây giờ? Thời gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và đời người cứ ngắn ngủi. Còn làm gì được nữa để biến cái hữu hạn của đời người ấy ra thành vô hạn để cùng vô hạn với thời gian, với mùa xuân mãi mãi của đất trời? Chỉ còn một cách, ấy là biến cái hữu hạn về lượng thành ra cái vô hạn về chất, nghĩa là phải vội vàng, phải hối hả, phải đắm say, phải mãnh liệt, phải sống để thu vào đến độ cao nhất những gì là đẹp đê, quý giá của đời sông, của mùa xuân, của tuổi trẻ. Phải nghĩ ngay đến cái nguy cơ mùa xuân sắp qua, tuổi trẻ sắp hết. Xuân Diệu giục giã: Mau di thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm Ta muốn ôm

Cả sự sông mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng.

Đúng là những câu thơ giục giã, cảm xúc của Xuân Diệu như một dòng suôi ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấy nhau để tạo theo kịp nguồn cảm xúc ấy. Những tiếng “ta muốn” láy đi láy lại mãi để khẳng định niềm khao khát mãnh liệt và cháy bỏng. Những từ ngữ Xuân Diệu sử dụng ở mức độ mãnh liệt nhất: muốn ôm, muốn riết, muốn say, muốn thâu; lại còn: một cái hôn nhiều, chữ nghĩa của Xuân Diệu thật mới lạ và đầy cảm xúc. Trong một dòng thơ, Xuân Diệu bắt đầu bằng từ “Và”, lại có đến 3 từ “và”. Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, đến cuông

quýt, tưởng chừng có thể một lúc dang tay ra ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sông như thế với Xuân Diệu mới thực là sông. Sông như thô mới đi đến chỗ tận cùng của niềm hạnh phúc được sông:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã dầy ánh sáng.

Cho no nê thanh sắc của thời tươi.

Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, là ánh sáng, là thanh sắc, tận hưởng cuộc đời là có được cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất: chếnh choáng, đã dầy, no nê.

Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân, như một cái gì quý nhất, trọn vẹn, như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khát khao cao độ:

Hỡi xuân hổng, ta muốn cán vào ngươi.

Thật không có thồ còn nói được gì hơn về nỗi rạo rực của tình yêu đôi với cuộc sống!

Gần 50 năm trước, Xuân Diệu đã linh cảm cái ngắn ngủi của đời, chỉ lo sợ không được cùng với thời gian tồn tại. Lạ thay, chính từ niềm lo sợ ây, những bài thơ của Xuân Diệu đã sông mãi với thời gian. Bây giờ, sau khi nhà thơ đã nằm xuống hơn 10 năm, đọc lại những bài thơ như bài Vội vàng này, ta bỗng nhận ra rằng: Xuân Diệu mãi mãi trẻ trung; hôm nay và mai sau cũng vậy. (L. D. C)

Bình giảng bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu – Bài làm 3

Khao khát giao cảm với đời, ham muôn sông mãnh liệt trong tuổi trẻ và tình yêu là đặc điểm của thơ Xuân Diệu. Ớ mỗi sáng tác, mỗi vần thơ của ông, ta đều thấy cái chất Xuân Diệu ấy.

Nếu trong Tỏa nhị Kiều là một tấm lòng yêu thương người phải sông một cuộc sống buồn tẻ, mờ nhạt, thì trong Vội vàng là một tấm lòng, một tâm hồn yêu đời, yêu người đến cuồng nhiệt trước cuộc sống “mới bắt đầu mơn mởn”. Ngay tựa đề của bài thơ, ta đã thấy cái gì đó “vội vàng” cuông quýt, ham muôn của một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống của Xuân Diệu.

Tôi muốn tắt nắng đi,

Cho màu đừng nhạt mất;

Tôi muốn buộc gió lại,

Cho hương đừng bay đi.

Ý muôn táo bạo quá! Phải chăng hồn thơ thiết tha với đời ấy đang lo lắng trước sự đổi thay của đất trời, cảnh vật nên muôn ôm tất cả, muôn giữ lại tất cả với vẻ đẹp vốn có của nó? Ý muôn của Xuân Diệu lớn quá, mạnh mẽ quá, như chính hồn ông vậy? “Muốn tắt nắng di”, “muốn buộc gió lại” có vẻ không ngoài ý muôn giữ cho vũ trụ ngừng quay, ý tưởng giữ lại cái đẹp, giữ lại thời gian… Những ý muôn, những hành động của ông cứ mạnh dần lên, lớn hơn lên: “tắt nắng” rồi lại “buộc gió”; cũng như sự “lớn” cùa lòng ham muôn của niềm khao khát trước cuộc sống tràn trề

đang tràn đầy hứa hẹn. Một loạt những điệp từ “này dây”, “này đây” đặt song song như sự sắp đật những món ăn tinh thần sẵn có, như gợi mở quyên rũ hấp dẫn đến lạ kì. Qua “cặp mắt xanh non” của nhà thơ, cuộc sống  trần thê xung quanh ta bỗng được phát hiện như một thiên đường, phong phú giàu có. cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc, những cái giá trị nhất của cuộc đời đang được Xuân Diệu phát hiện. Cái gì cũng “biếc rờn” “man mởn”. Khác với những nhà thơ cùng thời, Xuân Diệu cũng chịu “nỗi buồn thê hệ”, nhưng không có phần chán chường tuy buồn nhưng ông vẫn nhìn thấy cuộc sống tươi đẹp, đáng sống. Không như Chế Lan Viên trong Điêu tàn – quay lưng lại thực tại một cách gay gắt, quyết liệt; hay như Huy Cận chán nản, bố tắc trong những vần thơ; hoặc đi tìm nơi tiên cảnh như trong thơ Thê' Lữ, thơ Xuân Diệu luôn toát lên niềm ham sông mãnh liệt. Đó là nét bao trùm của hồn thơ ông. Tất cả như gợi lên sự tận hướng, gợi lên niềm khát khao tình yêu và cuộc sống. Cảnh vật dầy hứa hẹn tương lai, hạnh phúc; và với Xuân Diệu, cuộc đời luôn đầy ắp niềm yêu. Và đây, tháng giông hiện ra thật quyên rũ, hấp dẫn:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Một câu thơ lạ, thật gợi cảm bởi lôi ví von so sánh. “Tháng giêng” là tháng đẹp nhất của mùa xuân, mùa xuân là “mùa” đẹp nhất của thời gian. Mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa lá xanh tươi, con người trẻ trung yêu đời, ngập tràn nhựa sống. Thiên nhiên tươi đẹp, lòng người xốn xang… được Xuân Diệu ví với “cặp môi gần”. Nếu thơ truyền thông lấy chuẩn mực cái đẹp là cỏ cây hoa lá, thì với Xuân Diệu, chuẩn mực của cái đẹp lại là con người. Cái hay, cái đẹp, cái mới của hồn thơ Xuân Diệu, có thể nói cái rất Xuân Diệu phần nào là ở đó. Khác với Nguyền Du tả mùa xuân tươi đẹp với chuẩn mực là thiên nhiên; khác với Chế Lan Viên trong Điêu tàn, mùa xuân đáng yêu là thế mà thi nhận chối bỏ gay gắt, quyết liệt:

Ai dâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?

Với của hoa rơi, muôn cánh rã Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!

Đôi với Xuân Diệu, mùa xuân thật tươi đẹp, thật quyến rũ. Ở đây, Xuân Diệu không có sự phủ nhận thực tại như Chê' Lan Viên, mà trái lại, trước thực tại, ông luôn đón nhận nó một cách nồng nhiệt, thiết tha. Bơi lẽ, ông đang ý thức một thời xuân. “Cặp mắt xanh non”, “biếc rờn” của nhà thơ chạm vào cái gì cũng thấy đẹp, cũng thấy thú vị, hấp dần: “ngon như một cặp môi gần”. “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” là một câu thơ thật trong sáng. Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một cảm nhận trước phần “ngon nhất” của cuộc đời. Câu thơ vừa tả cảnh, vừa ngụ tình – đó là tình Xuân Diệu: khát khao hạnh phúc, khát khao yêu đương, thiết tha yêu cuộc đời đến cuồng nhiệt. Xuân Diệu đã “say sưa”, “chếnh choáng” trước vẻ đẹp “no nê”, “dã dầy” ánh sáng và hương sắc của mùa xuân. Nhưng vì lẽ thường, xuân chỉ là một trong bôn mùa của một năm, chi tồn tại một thời gian ngắn đê rồi mùa hạ, mùa thu, mùa đông sẽ đến, nôn

xuân mang trong nó tính thời gian, nghĩa là đang chuyển động:

Xuân dương tươi, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Khát khao giao cảm với đời, nên Xuân Diệu nhạy cảm, khám phá được nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên. Ông đang chứng kiến sự chuyên vần, thay đổi nhanh chóng của mùa xuân, đang chứng kiến thời gian trôi qua, và cái hữu hạn đời người. Xuân sẽ đi qua cuộc đời sẽ đi qua, nhưng thời gian vẫn mãi mãi trường tồn cùng vũ trụ. Có lẽ vì thế mà Xuân Diệu lúc nào cũng hấp tấp, vội vàng, để tận hưởng hết phần quý nhất, đẹp nhất của dời. Lúc nào Xuân Diệu cũng cuông quýt, vội vã, giục giã:

–   Mau với chứ, vộI vàng lên với chứ!

–  Gấp di em, anh rất sợ ngày mai!

–   Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm!

“Mau đi thôi”, vì xuân của cuộc đời đang qua đi, mà bi đát thay, nó lại không được “tuần hoàn” như xuân của trời đất. Cuộc đời, tuổi xuân đi qua là không bao giờ trở lại. Nhịp thơ, câu thơ như cũng đang “vội vàng” gấp gấp, nhanh nhanh, dồn dập. Lúc nào cùng cuông quýt, cũng “gấp đi em”, chính là Xuân Diệu lớn quá, hồn thơ Xuân Diệu mênh mông quá, nên mới “bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Xuân Diệu là thê đấy!

Ta muốn ôm,

Cả sự sống mới bát đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tỉnh yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.

Chữ “ôm” như gói trọn “Cả sự sống mới bắt dầu mơn mởn”, như ghì riết, ôm hôn tất cả để giữ lại tất cả. “Cặp mắt biếc rờn” của nhà thơ như đang muôn khám phá hết thảy những bí ẩn của thế giới thiên nhiên, như thấy tất cả đang căng đầy, tràn trề nhựa sông. Xuân Diệu “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) đã và đang làm cho những thê hệ bạn đọc trẻ tuổi kinh ngạc khi thưởng thức thơ ông. Lời thơ cuồng nhiệt, trần thế quá. Nhưng đó chính là cái tâm, cái hồn nhà thơ thiết tha yêu sự sông, yêu cuộc đời, muôn được “chếnh choáng”, “no nê” trong sự tận hưởng hết giá trị, hết cái đẹp của cuộc sống và tình yêu. Ta cảm giác như Xuân Diệu đang hạnh phúc, đang sung sướng đón nhận một món quà kì diệu, một niềm vui tột bậc khi nhà thơ buông ra câu kết:

Hỡi xuân hồng, ta muốn cẩn vào ngươi!

Mùa xuân như một trái chín hồng, như mời mọc ta, hấp dẫn ta, thôi thúc ta hành động đê đến cái đích: “cắn vào ngươi! ”. Lòng ham muốn mãnh liệt trong thơ Xuân Diệu trước tình yêu, trước cuộc đời mãi mãi là khát vọng, là ham muôn chưa toại nguyện. Xuân đẹp quá, gần quá mà chưa ôm trọn được.

Như thế Vội vàng không chỉ thể hiện một hồn thơ Xuân Diệu, một tàm lòng Xuân Diệu trước cuộc đời mà còn thê hiện một quan niệm nhân sinh mới “chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống”. Đó là thái độ sống tích cực, sống hết mình, sông “say siía”, sông cuồng nhiệt của Xuân Diệu.

Vội vàng đúng là một bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát giao cảm với đời. Mặc dù, có thể còn không ít cách cảm nhận khác nhau, nhưng nhìn chung, bài thơ khiến phần đông người đọc thêm yêu cuộc sống trần thế, biết tận hưởng niềm hạnh phúc được sông trên trái đất này, và càng quý trọng tuổi thanh xuân một đi không bao giờ trở lại, để không bao giờ phải ân hận xót xa, bởi những năm tháng sông hoài, sống phí. Xuân Diệu mãi mãi là nhà thơ của tình yêu, của tuổi trỏ chính vì lẽ đó.

Bình giảng bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu – Bài làm 4

Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Thơ của ông vừa thể hiện cái tôi trữ tình tích cực, mãnh liệt vừa là một hồn thơ yêu tha thiết cuộc sống và khát khao gắn bó chặt chẽ với trần gian. Điều đó có lẽ được thể hiện rõ nhất trong bài thơ “Vội Vàng” – một tác phẩm nói lên quan niệm sống vội, sống nhanh, sống gấp để tận hưởng trọn vẹn cái đẹp của cuộc sống, của tuổi trẻ của nhà thơ.                    

Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ bộc lộ cảm xúc, tình yêu mãnh liệt đối với cuộc sống và khát vọng muốn níu giữ cái đẹp cho đời của Xuân Diệu:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”                   

Nhà thơ đã trực tiếp bộc bạch tình cảm của mình với mọi người, với cuộc đời thông qua cách dùng đại từ “tôi”. Cách tự xưng đó bộc lộ một cái tôi giàu cá tính, táo bạo, có ý thức sâu sắc về bản thân. Cảm xúc của thi sĩ là tình yêu tha thiết với những vẻ đẹp hương sắc của cuộc đời, được diễn tả bằng hình ảnh “màu, hương”. Xuân Diệu không muốn những vẻ đẹp đó bị mai một, bị phai tàn đi vì quy luật tự nhiên: nắng sẽ làm cho màu nhạt mất, gió sẽ mang hương bay đi. Vì thế, thi nhân đã bộc lộ ước muốn mãnh liệt của mình trước những hiện tượng tự nhiên “muốn tắt nắng đi”, “muốn buộc gió lại”. Biết rằng điều đó là không thể, bởi không có một ai có thể buộc được gió, tắt được nắng nhưng với thi nhân đó là cách để bộc lộ khát khao mãnh liệt trong lòng: muốn níu giữ cái đẹp cho đời. Cách bộc lộ đó, chỉ có thể là Xuân Diệu mà thôi!                    

Những câu thơ tiếp theo bộc lộ khám phá của Xuân Diệu về một thiên đường trên mặt đất:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đay khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”                   

Tình yêu tha thiết của nhà thơ huống tới cuộc sống trần thế. Nhà thơ đã phát hiện một thiên đường trên mặt đất với những sự vật, hình ảnh hết sức quen thuộc, gần gũi nhưng cũng đầy quyến rũ, tình tứ: ong bướm ở tuần trăng mật, hoa của đồng nội xanh rì, lá của cành tơ, yến anh khúc tình si, ánh sáng của buổi bình minh.  Tất cả những hình ảnh đó đều đang ở thời điểm ngọt ngào, xuân sắc nhất, vì thế đã làm cho sống dậy nét quyến rũ, điệu tình tứ và kì thú của cảnh sắc tự nhiên. Phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên bằng con mắt tình yêu chính là sự độc đáo của Xuân Diệu. ta cảm nhận qua lăng kính của thời gian và tình yêu, vạn vật đều sống động và căng tràn sức sống. với nhà thơ mỗi ngày mới là một ngày vui.

Nhà thơ đã lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của tự nhiên nên đã so sánh vẻ đẹp của tháng giêng giống như một cặp môi của người con gái. Đối với nhà thơ, thời gian đẹp nhất trong ngày là buổi sớm bình minh, mùa xuân đẹp nhất vào tháng giêng – tháng đầu, tháng mới của một năm. Và như vậy, cảnh vật chỉ tình tứ, xuân sắc khi ở vào độ tươi trẻ còn khi đã vào độ phai tàn  thì hương sắc đều phôi phai, phai nhạt.

“Tôi sung sướng. nhưng vôi vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”                   

Tác giả đã sử dụng kiểu câu đặc biệt với dấu chấm giữa dòng để diễm tả cảm xúc rất đặc biệt của mình. Ông vừa sung sướng khi được tận hưởng cuộc sống nơi thiên đường trên mặt đất vừa vội vàng níu kéo bởi sợ thời gian trôi qua sẽ khiến mọi vẻ đẹp bị phai tàn. Đó là một cái nhìn, một cách cảm nhận quá tinh tế, mang màu sắc triết học.                         

Bài thơ còn thể hiện quan niệm về thời gian của Xuân Diệu:

“Xuân đang tới nghĩa là xuân sẽ qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chằng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”                        

Nếu người xưa lấy sinh mệnh của vũ trụ làm thước đo thời gian thì Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo, tức là, lấy cái hữu hạn của đời người thậm chí lấy khoảng thời gian ngắn ngủi và ý nghĩa nhất của đời người là tuổi trẻ để đo đếm thời gian của vũ trụ. Đó chidnh là biểu hiện của sự nhạy cảm trước bước đi thời gian của nhà thơ. Trong cách tranh biện của mình, Xuân Diệu không chỉ phản bác quan niejm cũ mà còn đặt ra vấn đề: dẫu vũ trụ có thể vĩnh viễn, thời gian có thể tuần hoàn nhưng tuổi trẻ con người chẳng thể hai lần thắm lại thì sự tuần hoàn của  thời gian cũng trở nên vô nghĩa với con người “mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Vì vậy “nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Do ý thức sâu sắc về sự trôi chảy của thời gian quá nhanh chóng nên cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu cũng mang đầy tính mất mát, chia lìa:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng cất tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”                     

Cách cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu, xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa của giá trị sự sống cá thể, ở từng khoảnh khắc thời gian. Quan niệm ấy giúp con người biết quý trọng từng giây phút của đời mình và làm cho những khoảnh khắc của đời mình trở nên ý nghĩa. Đây là cơ sở sâu xa của quan niệm sống vội vàng được thể hiện trong khổ thơ cuối:

“ ta muốn ôm
Cả sự sống mơi bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng
Cho chuyếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”                      

Ở hai phần đầu, tác giả sử dụng đại từ “tôi” để giãi bày tâm sự, cảm xúc, khao khát của mình, còn ở phần này ông lại xưng “ta”, tức là muốn đối diện với toàn thể sự sống trần gian. Cảm xúc của thi sĩ thể hiện ở những hình ảnh vồ vập, chuếnh choáng của một cái tôi đầy ham muốn tận hưởng cho thật nhiều, thật đã đầy hương sắc của cuộc sống đệp đẽ. Xuân Diệu đã sử dụng một loạt các động từ mạnh với cấp độ tăng tiến dần.  Ông muốn ôm lấy khi sự sống mới bắt đầu mơn mởn, muốn riết lấy mây gió, muốn say, muốn thâu trong tình yêu. Trạng thái tận hưởng cũng ngày càng tăng tiến, từ “chuếnh choáng”, “đã đầy” cho đến “no nê” và đỉnh cao của trạng thái cảm xúc là khi nhà thơ thốt lên “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”. Nhà thơ đã sử dụng những từ ngữ rất cụ thể, rất trần thế để diễn tả những sự vật vô hình.                            

Bài thơ “Vội vàng” nói lên niềm khao khát mãnh liệt được tận hưởng cuộc sống, mùa xuân, tình yêu của một tâm hồn thơ mới tươi trẻ luôn rạo rực và yêu tha thiết cuộc đời. Đây chính là nét độc đáo riêng làm nên phong cách thơ Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới.

Bài viết liên quan

0