25/05/2018, 10:16

Xác lập quyền yêu cầu cấp dưỡng

Phương thức Hai phương thức . Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 50 khoản 1, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa ...

Phương thức

Hai phương thức. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 50 khoản 1, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này. Điều 50 khoản 2 quy định thêm rằng trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh thực hiện nghĩa vụ đó thì phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của luật này.

Từ các quy định đó, có thể ghi nhận trong khung cảnh của luật hiện hành, hai phương thức xác lập quyền yêu cầu cấp dưỡng.

- Phương thức tương ứng với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 50 khoản 1. Điều luật thiết lập một nguyên tắc mà trên cơ sở của nguyên tắc đó, quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng, theo quy định của pháp luật, hình thành giữa các cặp chủ thể được điều luật liệt kê, trong những trường hợp đặc thù. Ta tạm gọi đó là những quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng do luật quy định hay quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng không mang tính chế tài.

- Phương thức tương ứng với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 50 khoản 2. Nghĩa vụ cấp dưỡng được ghi nhận như một biện pháp chế tài đối với người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Ta tạm gọi quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng này là quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng mang tính chế tài.

Điều kiện

a. Tình trạng kinh tế của người yêu cầu cấp dưỡng

Không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Nếu tất cả những người thân thuộc đều có cuộc sống vật chất đầy đủ, thì không ai có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ai. Thậm chí, một người sống túng thiếu nhưng có khả năng tự giải quyết các vấn đề đặt ra cho cuộc sống vật chất của mình bằng sức lao động của mình, cũng không có quyền yêu cầu cấp dưỡng. Ta sẽ thấy, trừ trường hợp cấp dưỡng cho vợ chồng sau khi ly hôn, rằng người được cấp dưỡng, nếu không phải là người chưa thành niên, chỉ xác lập được quyền yêu cầu cấp dưỡng trong trường hợp “không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Hiểu thế nào về cụm từ đó trong khung cảnh của các quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng ?

Không có khả năng lao động. Hẳn thế nào là không có khả năng lao động tùy thuộc vào sự đánh giá của thẩm phán. Người thất nghiệp chưa chắc là không có khả năng lao động; người tật nguyền cũng có thể có khả năng lao động;... Có lẽ khả năng lao động nói trong các điều luật liên quan chủ yếu là khả năng về sức vóc, cơ bắp và các kỹ năng cho phép đương sự thực hiện một công việc (thường xuyên hoặc không thường xuyên), hoặc với tư cách người lao động cá thể, riêng lẻ, hoặc với tư cách người lao động làm thuê, nhằm tạo thu nhập nuôi sống mình và gia đình mình. Không thể nói là không có khả năng lao động, một người vai u, thịt bắp, khoẻ mạnh, có thể được sử dụng tốt vào các công việc cần lao động chân tay, nhưng lại chỉ mơ tưởng đến những công việc thuộc các lĩnh vực rất chuyên môn mà mình không đủ năng lực để chen chân vào và do đó, không được ai quan tâm tuyển dụng, cuối cùng rơi vào cảnh sống bần cùng. Trái lại, có thể coi là không có khả năng lao động một người chấp nhận làm bất kỳ việc gì trong khuôn khổ pháp luật, để có thu nhập, nhưng không ai chịu thuê.

Không có tài sản để tự nuôi mình. Không nhất thiết người yêu cầu cấp dưỡng hoàn toàn không có tài sản. Người yêu cầu cấp dưỡng có thể có tài sản gốc, nhưng tài sản không sinh lợi (Ví dụ, có một căn nhà tranh, một ít đồ vật gia dụng,... không thể cho ai thuê. )hoặc có sinh lợi và đã được khai thác theo khả năng của chủ sở hữu, nhưng không đủ để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình mình. Người có yêu cầu cấp dưỡng cũng có thể có thu nhập thường xuyên hoặc không thường xuyên do lao động, thậm chí có hưởng trợ cấp (mất sức, thương tật,...) và đã huy động tất cả các nguồn thu nhập của mình mà vẫn không thoả mãn được các yêu cầu chi tiêu tối thiểu cho cuộc sống hàng ngày của mình và của gia đình mình.

b. Tình trạng của người được yêu cầu cấp dưỡng

Có khả năng và có điều kiện cấp dưỡng. Nếu tất cả những người có liên quan đều ở trong tình trạng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình, thì mỗi người đều phải tự xoay sở. Người được yêu cầu cấp dưỡng chỉ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một khi có khả năng vật chất và có điều kiện hỗ trợ cho người yêu cầu.

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã dẫn Điều 16 khoản 1 quy định rằng người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại các điều 51, 52 và 53 của Luật hôn nhân và gia đình là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thườìng cần thiết cho cuộc sống của người đó (Tài sản, thu nhập ở đây phải là tài sản, thu nhập ròng, nghĩa là sau khi đã trừ chi phí đầu vào, trừ thuế, nợ. Hơn nữa, tài sản đó phải là hình thức biểu hiện vật chất của thu nhập, hoa lợi, lợi tức chứ không phải là các tài sản gốc.) Câu chữ của điều luật cho phép nghĩ rằng chỉ có thể coi là có khả năng cấp dưỡng người có thu nhập (dù là không thường xuyên) và đã có thể tự bảo đảm việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống của mình. Luật chỉ nhắc đến “cuộc sống của người đó” (của người có nghĩa vụ cấp dưỡng), cũng như khi nói về người có quyền được cấp dưỡng. Trong đa số trường hợp, đương sự còn có vợ (chồng) thậm chí có con phải nuôi dưỡng của riêng mình. Một cách hợp lý, “cuộc sống của người đó” phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất: không chỉ là cuộc sống của cá nhân người đó, mà còn là cuộc sống của gia đình hộ của người đó, nghĩa là của những người mà người đó có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng. Không thể buộc một người hy sinh gia đình của mình để cứu lấy gia đình của người khác.

không mang tính chế tài

Việc xác lập quyền yêu cầu cấp dưỡng không mang tính chế tài được quy định tại Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 các Điều từ 56 đến 60. Ta có các quyền cấp dưỡng trong quan hệ giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em, giữa ông bà nội (ngoại) và cháu và giữa vợ chồng sau khi ly hôn.

a. Quan hệ giữa cha mẹ và con

Cha mẹ cấp dưỡng cho con sau khi cha mẹ ly hôn. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 56, khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Ta đã nói rằng quan hệ cha mẹ-con không lệ thuộc vào tính chất của quan hệ giữa cha và mẹ. Bởi vậy, sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con vẫn luôn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con. Tuy nhiên, trong điều kiện cha mẹ ly hôn và con phải sống chung với một trong hai người, người không trực tiếp nuôi dưỡng con có thể thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng dưới hình thức cấp dưỡng và người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện việc cấp dưỡng, thay cho việc nuôi dưỡng theo những thể thức bình thường được áp dụng lúc cha mẹ còn duy trì quan hệ hôn nhân. Cần nhấn mạnh rằng con được cấp dưỡng phải là con chung của vợ và chồng; luật không phân biệt con chung ấy là con ruột hay con nuôi.

Cũng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 17 khoản 2, trong trường hợp việc kết hôn giữa cha mẹ bị huỷ, thì quyền lợi của con được giải quyết như trong trường hợp cha mẹ ly hôn. Bởi vậy, khi việc kết hôn bị huỷ, người không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Con cấp dưỡng cho cha mẹ. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 57, con đã thành niên không sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Chắc chắn, con đối với cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng, một khi con đã thành niên và có khả năng lao động trong điều kiện cha mẹ không sống chung, không có khả năng lao động và không có tài sản. Vấn đề đặt ra: liệu con đã thành niên mất năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình hoặc bị hạn chế năng lực hành vi, nhưng có tài sản sinh lợi, có phải cấp dưỡng cho cha mẹ không sống chung với mình ? Luật hiện hành không có câu trả lời chính thức cho câu hỏi này. Dẫu sao, việc cấp dưỡng cho cha mẹ mà không mang tính chất của một biện pháp chế tài là hình thức thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng trong trường hợp đặc thù mà cha mẹ sống riêng với con và không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình. Luật, khi xây dựng quan hệ nuôi dưỡng giữa một bên là con có nghĩa vụ nuôi dưỡng và bên kia là cha mẹ có quyền được nuôi dưỡng, thậm chí không phân biệt con chưa thành niên hay đã thành niên. Bởi vậy, có thể tin rằng ngay nếu như người đã thành niên mất năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình hoặc bị hạn chế năng lực hành vi mà có tài sản sinh lợi, thì nghĩa vụ cấp dưỡng (không mang tính chế tài) vẫn có thể ràng buộc người này: việc thực hiện nghĩa vụ đó được bảo đảm bằng vai trò của người đại diện.

b. Quan hệ giữa anh, chị, em

Cấp dưỡng dự bị. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 58, trong trường hợp anh chị em không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con, thì anh chị đã thành niên không chung sống với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; em đã thành niên không chung sống với anh chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Ta nhận thấy ngay điều kiện thứ nhất để phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh chị em: không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con. Trong chừng mực nào đó, có thể coi anh chị em như là người có nghĩa vụ dự bị, sau cha mẹ, đối với những người mà cha mẹ có trách nhiệm cấp dưỡng.

c. Quan hệ giữa ông bà nội (ngoại) và cháu

.Ông bà nội (ngoại) cấp dưỡng cho cháu. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 59 khoản 1, ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 58 của Luật này. Khi nói về cháu chưa thành niên, người làm luật không nói thêm “không có tài sản để tự nuôi mình” như trong trường hợp quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh chị em. Song, Luật lại chỉ ràng buộc ông bà nội (ngoại) vào nghĩa vụ cấp dưỡng đối với cháu trong trường hợp cháu không có người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 58, nghĩa là trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện cấp dưỡng và cũng không còn anh, chị, em hoặc còn nhưng anh, chị, em cũng không có điều kiện cấp dưỡng. Do đóï, có thể thừa nhận rằng ông bà nội (ngoại) chỉ là người cấp dưỡng dự bị của anh, chị, em, thậm chí là người dự bị đích thực, tức là chỉ phải cấp dưỡng một khi người được cấp dưỡng rơi đúng vào trường hợp có thể được anh, chị, em cấp dưỡng, nếu có anh, chị, em và những người này có điều kiện để cấp dưỡng.

Cháu cấp dưỡng cho ông bà nội (ngoại). Cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội (ngoại) có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội (ngoại) trong trường hợp ông bà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng theo quy định của của Luật này (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 59 khoản 2). Vậy có nghĩa rằng ông bà có quyền yêu cầu cấp dưỡng đối với cháu một khi không sống chung với cháu và bản thân ông bà không còn cha mẹ, con, anh, chị, em hoặc những người này không có điều kiện cấp dưỡng.

d. Quan hệ giữa vợ và chồng

Cấp dưỡng sau khi ly hôn. Trong luật hiện hành, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng chỉ được đặt ra sau khi ly hôn. Quan hệ vợ chồng được chấm dứt bằng ly hôn phải là quan hệ vợ chồng hợp pháp. Có trường hợp sau khi ly hôn, việc kết hôn trước đó lại bị huỷ bằng một bản án hoặc quyết định của Toà án theo yêu cầu của vợ, chồng đã ly hôn hoặc của một người thứ ba; khi đó nghĩa vụ cấp dưỡng phải bị huỷ bỏ.

Hơn nữa, ly hôn chỉ là một trong các điều kiện cần. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 60 quy định rằng khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng, thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Cần nhấn mạnh ba chữ đầu của điều luật - “khi ly hôn”. Trong nhiều trường hợp mỗi bên đều có cuộc sống vật chất bình thường khi ly hôn; nhưng sau đó một thời gian, một bên, do nguyên nhân gì đó khách quan hoặc chủ quan, rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Hẳn trong suy nghĩ của người làm luật, bên khó khăn trong trường hợp này không thể yêu cầu bên kia cấp dưỡng. Nói rõ hơn, hoàn cảnh sống mà luật dựa vào đó để xác định liệu có hay không có nghĩa vụ cấp dưỡng của một bên đối với bên kia trong một vụ ly hôn là hoàn cảnh sống được ghi nhận tại thời điểm ly hôn. Khi đó, cấp dưỡng được coi như một biện pháp hỗ trợ cho người ly hôn tránh được những xáo trộn trong cuộc sống vật chất là hệ quả trực tiếp của sự kiện ly hôn.

Nhưng, cần lưu ý rằng khác với người có quyền yêu cầu cấp dưỡng trong các trường hợp khác, người được cấp dưỡng với tư cách là vợ (chồng) ly hôn không nhất thiết phải ở trong tình trạng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Chỉ cần người này rơi vào tình trạng sống sa sút đáng kể so với trước khi ly hôn và sự sa sút đó có một trong những nguyên nhân trực tiếp là việc ly hôn, thì quyền yêu cầu cấp dưỡng được xác lập.

mang tính chế tài

Khái niệm “trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng”.

Việc xác lập quyền yêu cầu cấp dưỡng mang tính chế tài được ghi nhận cho tất cả các trường hợp giữa người có quyền và người có nghĩa vụ có quan hệ nuôi dưỡng và người có trách nhiệm nuôi dưỡng cố tình lẫn tránh trách nhiệm đó. Luật sử dụng từ “trốn tránh” để chỉ hành vi của người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà do hành vi đó, người này có thể bị buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Thế nào là trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng ? Đúng là đứng trước yêu cầu chính đáng và bức bách của người được nuôi dưỡng (Người được nuôi dưỡng đang bị đói và cần có gì đó để ăn; đang bệnh và cần ít tiền để chi phí thuốc men;... ) người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà tỏ ra thờ ơ, không có một động thái gì cho thấy thiện chí đáp ứng, rõ ràng là người trốn tránh; người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà từ chối tiếp người được nuôi dưỡng để nghe người sau này trình bày những yêu cầu của mình liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, là người có hành vi trốn tránh; người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà hứa suông, không đáp ứng cụ thể các yêu cầu của người được nuôi dưỡng, cũng là người trốn tránh.

a. Quan hệ cha mẹ và con

Cha mẹ cấp dưỡng cho con. Cha mẹ chỉ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng đối với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà tàn tật, mất năng lực hành vi, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 36 khoản 1). Bởi vậy, vấn đề cấp dưỡng của cha mẹ đối với con chỉ được đặt ra, một khi cha mẹ không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng các con trong các trường hợp này. Con không được nuôi dưỡng có thể đang chung sống hoặc không chung sống với cha mẹ.

Con cấp dưỡng cho cha mẹ. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 36 khoản 2, con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật. Điều luật cũng không phân biệt con sống chung hay sống riêng với cha mẹ. Cần lưu ý rằng, dù luật không quy định rõ, chỉ có con có khả năng nuôi dưỡng mới có nghĩa vụ nuôi dưỡng. Nhưng liệu tất cả các con có nghĩa vụ nuôi dưỡng đều buộc phải cấp dưỡng khi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng?

Chắc chắn, con đã thành niên và có khả năng lao động là những người đầu tiên có nghĩa vụ nuôi dưỡng được bảo đảm thực hiện bằng nghĩa vụ cấp dưỡng.

Con đã thành niên mất năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình, nhưng có tài sản sinh lợi, như đã nói, cũng có nghĩa vụ nuôi dưỡng; song khó có thể nói được rằng nếu con không làm tròn nghĩa vụ nuôi dưỡng (thông qua vai trò của người giám hộ) trong trường hợp này, thì có thể bị buộc thực hiện nghĩa vụ cấïp dưỡng. Con chưa thành niên đủ 15 tuổi mà có thu nhập cũng có nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với cha mẹ; tuy nhiên, có vẻ như người làm luật không sẵn sàng buộc con chưa thành niên đủ 15 tuổi mà có thu nhập vào nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp con trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với cha mẹ. Nói chung, nghĩa vụ nuôi dưỡng của con chưa thành niên đủ 15 tuổi và con thành niên mất năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình nhưng có tài sản, đối với cha mẹ, mang đậm tính chất của một nghĩa vụ tự nhiên hơn là của một nghĩa vụ pháp lý.

Tóm lại, chỉ có con đã thành niên và có khả năng lao động là những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà có thể bị buộc phải cấp dưỡng.

b. Quan hệ giữa anh chị em

Không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng cấp dưỡng, nuôi dưỡng. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 48, anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.

Với quy định này thì thoạt trông, chỉ cần không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục con, thì nghĩa vụ nuôi dưỡng được xác lập một cách đương nhiên giữa tất cả các anh, chị, em, bất kể tuổi tác và người trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng sẽ bị buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do áp dụng Điều 50 khoản 2. Thực ra, về phương diện đạo đức, anh, chị, em luôn có nghĩa vụ đùm bọc nuôi dưỡng nhau, dù còn hay không còn cha mẹ. Nhưng trong khung cảnh của Điều 48, nghĩa vụ đùm bọc, nuôi dưỡng giữa anh, chị, em được xác lập như một nghĩa vụ pháp lý trong trường hợp không thể xác lập nghĩa vụ nuôi dưỡng (pháp lý) của cha mẹ đối với con. Thế mà, ta đã biết, cha mẹ chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng (pháp lý) đối với con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Bởi vậy, quan hệ nuôi dưỡng giữa anh, chị, em, với tư cách là một quan hệ pháp lý, chỉ hình thành, trong điều kiện cha mẹ không còn hoặc không có khả năng nuôi dưỡng người khác, một khi có ít nhất một trong số anh, chị, em là người chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Hơn nữa, quan hệ nghĩa vụ (pháp lý) chỉ được xác lập trọn vẹn một khi có ít nhất một người có điều kiện nuôi dưỡng người khác, nghĩa là trước hết phải có khả năng làm ra của cải ( Xem xét vấn đề trong khung cảnh của pháp luật lao động, có thể tin rằng người có trách nhiệm nuôi dưỡng trong trường hợp này phải có năng lực xác lập quan hệ lao động, tức là phải đủ 15 tuổi, có khả năng lao động,... (BLLĐ Điều 6). Tuy nhiên, không hẳn là phù hợp với ý chí của người làm luật giải pháp theo đó, người chưa thành niên đủ 15 tuổi trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với anh, chị, em thì có thể bị buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Khi nói về việc cấp dưỡng không mang tính chế tài giữa anh, chị, em, người làm luật chỉ nhắc đến anh, chị, em đã thành niên như là những người có năng lực pháp luật cấp dưỡng. Hẳn cũng như trong quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng có tính chế tài của con đối với cha mẹ, người có nghĩa vụ cấp dưỡng mang tính chế tài đối với anh, chị, em phải là người đã thành niên, có khả năng lao động và có tài sản. ). Điều đáng chú ý: khi nói về quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng mang tính chế tài giữa anh, chị, em, luật lại không có quy định phân biệt giữa em chưa thành niên có tài sản và em chưa thành niên không có tài sản, như trong trường hợp xác lập quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng không mang tính chế tài.

c. Quan hệ ông bà nội (ngoại) và cháu

Ông bà nội (ngoại) cấp dưỡng cho cháu. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 47 khoản 1, ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu trong trườìng hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 48 của Luật này. Vậy nghĩa là ông bà nội (ngoại) chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với cháu trong trường hợp cháu không còn cha mẹ, anh, chị, em hoặc còn nhưng những người này không có khả năng, điều kiện nuôi dưỡng. Một khi những điều kiện do luật quy định đã có đủ mà ông bà nội (ngoại) không nuôi dưỡng cháu, thì có thể bị buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Cháu cấp dưỡng cho ông bà nội (ngoại). Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội (ngoại) (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 47 khoản 2). Luật sử dụng từ “phụng dưỡng” thay vì “nuôi dưỡng”. Có lẽ, đó chỉ vì khi nói về quan hệ nuôi dưỡng giữa một bên - người có nghĩa vụ - là con cháu và bên kia - người có quyền yêu cầu - là cha mẹ, ông bà -, dân gian quen sử dụng từ phụng dưỡng hơn là từ nuôi dưỡng. Dẫu sao, về nội hàm pháp lý, hẳn từ phụng dưỡng trong điều luật cũng giống từ nuôi dưỡng. Vậy, cháu có nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại; và nếu cháu trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Cần lưu ý rằng khi nói về bổn phận phụng dưỡng của cháu đối với ông bà nội (ngoại), luật không phân biệt các trường hợp tùy theo ông bà còn hay không còn con. Tuy nhiên, bằng cùng một cách phân tích được sử dụng đối với quan hệ đùm bọc, nuôi dưỡng giữa anh, chị, em, ta kết luận rằng một khi ông bà còn có con đủ khả năng lao động, thì bổn phận phụng dưỡng của cháu đối với ông bà chỉ là một bổn phận thuần tuý đạo đức; cháu chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng (pháp lý) đối với ông bà trong trường hợp ông bà không còn con có điều kiện nuôi dưỡng ông bà.

0