24/05/2018, 19:30

WTO Mục tiêu, chức năng và cơ cấu

WTO là một nhân tố bao trùm, chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện tất cả các. Hiệp định đa biên và nhiều bên đã được đàm phán ở vòng Urugoay và những Hiệp định sẽ được đàm phán trong tương lai. Những mục tiêu cơ bản của WTO cũng tương tự ...

WTO là một nhân tố bao trùm, chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện tất cả các. Hiệp định đa biên và nhiều bên đã được đàm phán ở vòng Urugoay và những Hiệp định sẽ được đàm phán trong tương lai. Những mục tiêu cơ bản của WTO cũng tương tự như những mục tiêu của GATT, và GATT nay đã chuyển thành WTO. Đó là:

Nâng cao mức sống, thu nhập, đảm bảo đầy đủ việc làm mở rộng sản phẩm và thương mại và tạo điều kiện để sử dụng tối ưu các nguồn lực của thế giới (GATT) và:

  • Thương mại dịch vụ
  • Nhu cầu thúc đẩy sự "phát triển bền vững" bảo vệ giữ gìn môi trường phù hợp với các nước phát triển khác nhau và mỗi quốc gia.
  • Nhu cầu phải có những nỗ lực tích cực để đảm bảo rằng các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước kém phát triển nhất, có được tỷ trọng tăng trưởng lớn hơn trong thương mại quốc tế.
  • WTO tạo điều kiện cho việc thực thi, điều hành và hoạt động của các công cụ pháp lý của vòng đàm phán Urugoay và của bất kỳ Hiệp định mới nào được đàm phán trong tương lai.
  • WTO là diễn đàn để các nước thành viên tiếp tục đàm phán về các vấn đề nêu trong các hiệp định, về các vấn đề mới phát sinh trong quyền hạn của mình và về việc mở rộng tự do hóa thương mại.
  • WTO có trách nhiệm giải quyết tranh chấp và bất đồng giữa các quốc gia thành viên.
  • WTO có trách nhiệm thực hiện việc rà soát thường kỳ chính sách thương mại của các quốc gia thành viên.

* Cơ quan đầu não của WTO, có trách nhiệm đưa ra các quyết định là hội nghị bộ trưởng họp 2 năm một lần . Kể từ khi thành lập WTO đến nay đã có 3 cuộc họp hội nghị Bộ trưởng: cuộc họp đầu tiên được tổ chức tại Singapore tháng 12/1996, cuộc họp thứ hai tại Cnoneva tháng 5/1998 và cuộc họp thứ ba tại Seatle 30/11 đến 3/12/1999.

- Trong thời gian 2 năm giữa hai hội nghị, đại hội đồng sẽ thực hiện các chức năng của hội nghị.

- Khi xem xét các khiếu kiện, đại hội đồng sẽ họp với tư cách là cơ quan giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thành viên. Đại hội đồng cũng có trách nhiệm thực hiện việc rò soát chính sách thương mại của từng quốc gia trên cơ sở các báo cáo do ban thư ký của WTO soạn thảo.

Hoạt động của đại hội đồng được hỗ trợ bởi các tổ chức sau:

- Hội đồng thương mại hàng hóa, giám sát việc thực thi và hoạt động của GATT 1994. ủy ban về:

  • Tiếp cận thị trường.
  • Nông nghiệp
  • Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch
  • Các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
  • Trợ cấp và các biện pháp đối kháng
  • Hành vi chống phá giá
  • Trị giá hải quan
  • Quy tắc xuất xứ
  • Cấp phép nhập khẩu
  • Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
  • Các biện pháp tự vệ

- Hội đồng về các khía cạnh đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.

- Hội đồng thương mại hàng hóa

ủy ban về:

  • Thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính
  • Những cam kết cụ thể

Quá trình ra quyết định

Hiệp định quy định là WTO sẽ tiếp nối tập quán ra quyết định của GATT, tức là theo phương pháp đồng thuận. Điều này có nghĩa là khi một quyết định được đưa ra, không có nước nào bỏ phiếu trống.

Khi không đạt được sự đồng thuận, hiệp định WTO cho phép quyết định được thông qua bằng đa số phiếu. Mỗi quốc gia có quyền bỏ 1 phiếu.

Mặc dù có điều kiện này song những quyết định về tất cả các vấn đề chính sách quan trọng (như vậy bắt đầu đàm phán về một lĩnh vực chưa được các công cụ pháp lý của WTO điều chỉnh) nói chung đều phải được thông qua bằng đồng thuận. Quy tắc đồng thuận này nhằm ngăn chặn "sự chuyển biến của đa số", đặc biệt khi có một nhóm đồng ý kiến phản đối mạnh mẽ quyết định được đưa ra.

Tuy nhiên cũng có một vài trường hợp quy định yêu cầu bỏ phiếu đặc biệt.

Ban thư ký của WTO

WTO đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ. Đứng đầu WTO là Tổng giám đốc. Giúp việc cho Tổng giám đốc là ba phó Tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc do Tổng giám đốc bổ nhiệm sau khi tham khảo ý kiến của các quốc gia thành viên.

Ban thư ký của WTO gồm 500 người thuộc các quốc tịch khác nhau. Để thực hiện nhiệm vụ của mình, Tổng giám đốc và nhân viên của WTO không được "xin hay chấp thuận sự chỉ đạo của bất kỳ Chính phủ hay tổ chức nào ngoài WTO" và do đó, duy trì được đặc trưng quốc tế của ban thư ký.

Tư cách thành viên

Cho đến 31/5/1999, WTO có 134 thành viên:

Các nước chưa phải là thành viên của WTO có thể trở thành thành viên thông qua đàm phán để gia nhập. Trong các cuộc đàm phán này, các nước phải đồng ý thực hiện các bước để đưa hệ thống luật pháp của mình phù hợp với các quy tắc của các hiệp định đa biên. Hơn nữa, họ phải cam kết giảm thuế quan và sửa đổi luật pháp để tăng khả năng thâm nhập thị trường của hàng hóa và dịch vụ nước ngoài. Các cam kết này thường được coi là cái giá của "vé vào cửa" cho phép nước gia nhập được hưởng lợi trên cơ sở chí tối huệ quốc, từ toàn bộ cam kết cắt giảm thuế quan và các cam kết của các nước thành viên trong quá khứ. Hiện đang có 30 nước tiến hành đàm phán gia nhập WTO.

Phân loại các thành viên WTO

Hệ thống WTO có phân biệt 4 nhóm các nước thành viên: phát triển, đang phát triển, kém phát triển nhất là các nền kinh tế chuyển đổi tại hội nghị Bộ trưởng Giơnevơ năm 1998, lần đầu tiên đề cập tới "một số nền kinh tế nhỏ bé" trong khuôn khổ nhóm các nước đang phát triển".

Tất cả chính sách nước do Liên hiệp quốc xếp hạng là "kém phát triển nhất" được đối xử như các nước kém phát triển nhất là trong hệ thống WTO. Hiện tại có 48 nước thuộc nhóm này. Tuy nhiên chưa có định nghĩa thống nhất và chính xác xem các nước còn lại thuộc nhóm nào. Việc xác định một quốc gia "đang phát triển" được thực hiện theo nguyên tắc "tự nhân". Những nước trong quá khứ có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chủ yếu thuộc Đông và Trung Âu và Liên Bang Xô viết cũ) và hiện nay đang từng bước chuyển sang kinh tế thị trường và dân chủ hóa được đối xử như những nền kinh tế chuyển đổi. Những thành viên còn lại được coi là những nước phát triển.

- Các điều khoản về đối xử đặc biệt và các khác biệt đối với các nước đang phát triển và các nước kém phát triển nhất.

Các hiệp định đa biên nhận thấy các nước đang phát triển kể cả các nước kém phát triển nhất, có thể gặp khó khăn trong việc chấp nhận tất cả hoặc một số nghĩa vụ và quy định đề ra các Hiệp định này đã quy định dành đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước trên. Các điều khoản đó có thể sơ bộ chia làm 3 loại:

- Các điều khoản yêu cầu các nước (phát triển và đang phát triển) thực hiện các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại của các nước đang phát triển và kém phát triển.

- Sự linh hoạt của các nước đang phát triển và kém phát triển nhất trong việc chấp nhận các nghĩa vụ do các Hiệp định WTO.

- Cung cấp trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển và kém phát triển nhất để xây dựng năng lực cho các nước này thực hiện các hiệp định.

Các thủ tục giải quyết tranh chấp

Hệ thống WTO đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp khi một nước phát triển một nước khác vi phạm các quy tắc và sau khi mọi nỗ lực tìm kiếm các giải pháp thoải đáng thông qua tham vấn song phương thất bại tranh chấp trong khuôn khổ WTO thông thường là kết quả các thông tin về những khó khăn gặp phải khi tiếp thị sản phẩm tại các thị trường nước ngoài do các ngành sản xuất hay hiệp hội ngành cung cấp cho Chính phủ.

Mặc dù trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp - tham vấn song phương, kiểm tra của Ban hội thẩm và sau đó là cơ quan phúc thẩm. Các đại diện Chính phủ là người tham gia vào các quá trình này, nhưng các cơ quan này chủ yếu dựa vào tư vấn và sự ủng hộ từ ngành sản xuất và các hiệp hội có quyền lợi trong vấn đề đưa ra tranh chấp. Khả năng của các Chính phủ theo đuổi một vụ khiếu kiện hay bảo vệ các quyền lợi trong trường hợp bị kiện, phụ thuộc lớn vào sự trợ giúp và ủng hộ của các nhóm ngành sản xuất có liên quan.

Cơ chế và chính sách thương mại

Ngoài việc đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp, WTO hoạt động như một diễn đàn để rà soát theo định kỳ chính sách thương mại của các nước thành viên. Hoạt động rà soát là nhằm đạt được hai mục tiêu. Thứ nhất, để đánh giá mức độ tuân thủ các yêu cầu và cam kết theo các Hiệp định đa biên của từng quốc gia thành viên, và nếu tham gia các Hiệp định nhiều bên thì kể các các hiệp định nhiều bên. Bằng cách thực hiện những rà soát như vậy một cách định kỳ, WTO hành động như một "bộ máy giám sát" nhằm đảm bảo là các quy tắc được tuân thủ và như vậy góp phần ngăn chặn xung đột thương mại. Các điều khoản quy định về cơ chế rà soát, tuy nhiên cũng nêu rõ là cơ chế rà soát không phải sử dụng làm cơ sở để thực thi các nghĩa vụ; hay để giải quyết tranh chấp. Thứ hai, mục tiêu không kém phần quan trọng của phần rà soát này là tạo nên sự minh bạch và sự hiểu biết hơn về các chính sách và hoạt động thương mại của các nước thành viên.

0