25/05/2018, 13:35

Võ Văn Ngân

(1902-1938) (1902-1938), là một nhà cách mạng, một chiến sĩ cộng sản của Việt Nam. sinh năm 1902 tại làng Bình Tây, xã Đức Hoà, quận Đức Hoà, ...

(1902-1938)

(1902-1938), là một nhà cách mạng, một chiến sĩ cộng sản của Việt Nam.

sinh năm 1902 tại làng Bình Tây, xã Đức Hoà, quận Đức Hoà, tỉnh Chợ Lớn, nay là tỉnh Long An. Ông là em ruột Võ Văn Tần, con út của ông Võ Văn Sự và bà Nguyễn Thị Toàn. Nhà tuy nghèo khó nhưng giàu truyền thống chống ngoại xâm. Ông nội và ông ngoại của đều từng trực tiếp cầm võ khí đánh Pháp và bị người Pháp giết chết. 7 anh chị em gia đình ông lớn lên đều trở thành đảng viên Đảng Cộng sản hoặc là cơ sở trung kiên của cách mạng.

Lúc nhỏ có may mắn hơn các anh chị là ở chung nhiều với cha mẹ, được chăm lo dạy dỗ và học hành chu đáo. Nhưng anh cũng không ỷ lại, trái lại anh rất chịu khó cả trong việc nhà lẫn việc học. Chịu ảnh hưởng truyền thống tốt đẹp của gia đình, làng xóm và nhất là từ người anh trai Võ Văn Tần, sớm có suy nghĩ độc lập, ham tìm đọc sách báo yêu nước, tiến bộ, từ đó ý thức về con đường đấu tranh chống áp bức, tự nguyện dấn thân tìm đường cứu dân cứu nước.

Năm 1926, cùng anh trai tham gia vào Hội kín Nguyễn An Ninh, bấy giờ là tổ chức yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ. Nhưng nhận thức về hạn chế của Hội kín là không mở tầm hoạt động ra tất cả các tầng lớp quần chúng lao động nghèo khổ, bèn chuyển sang gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, là hội của những người làm cách mạng Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc sáng lập từ giữa 1925. Vào tổ chức này, ông trở thành một trong số hội viên cốt cán đầu tiên ở quận Đức Hoà, có công đi tuyên truyền gầy dựng Thanh niên trong quận và tỉnh Chợ Lớn. Nhiều hội viên được ông kết nạp về sau thành những đảng viên trung kiên hoặc quần chúng ưu tú như Nguyễn Văn Thỏ (tức Nguyễn Văn Thới), Trần Văn Thẳng (tức Hai Thẳng)…

Từ thượng tuần tháng 8 năm 1929, sau khi Châu Văn Liêm, thành viên Ban thường vụ Kỳ bộ Thanh niên Nam Kì lập ra An Nam Cộng sản Đảng thì Ngân và Tần trở thành đảng viên của tổ chức này. Hai anh em là người đầu tiên lập ra chi bộ Cộng sản sớm nhất ở Đức Hoà vào cuối năm 1929 gồm 7 người do Võ Văn Tần làm bí thư. Thời gian hoạt động trong tổ chức An Nam Cộng sản Đảng, chú trọng việc đoàn kết tập hợp nông dân bằng việc lập ra Nông hội đỏ, giao cho Trần Văn Thẳng làm Hội trưởng, trước là bảo vệ lẫn nhau sau là đấu tranh chống thực dân Pháp và địa chủ quan làng áp bức bóc lột.

Cuối tháng 2 năm 1930 Châu Văn Liêm từ Hương Cảng trở về cho biết Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất Đảng, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất trên toàn quốc, vô cùng sung sướng liền cử người lên Sài Gòn dự lớp tập huấn do ông Liêm mở, để triển khai thực hiện nghị quyết của hội nghị thành lập Đảng. Ngày 6 tháng 3 năm 1930 tức mồng 7 tháng 2 năm Canh Ngọ, và Võ Văn Tần nhóm cuộc họp bí mật tại nhà Hương hộ Thỏ ở làng Đức Hoà tuyên bố chuyển chi bộ An Nam Cộng sản Đảng thành chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Chi bộ vẫn gồm 7 người: Võ Văn Tần, , Võ Văn Tây, Võ Thị Phái, Nguyễn Văn Thỏ, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Sậy, và do ông Tần làm bí thư[2]. Đây là chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở quận Đức Hoà và tỉnh Chợ Lớn. Chi bộ ra nghị quyết lấy thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga làm nội dung vận động, vực dậy tinh thần quần chúng đồng thời ráo riết phát triển tổ chức quần chúng, đồng thời ráo riết phát triển tổ chức trước hết ở những nơi có điều kiện cơ sở quần chúng tốt như Mỹ Hạnh, Hựu Thạnh, tiến tới thành lập Quận uỷ. Khoảng cuối tháng 5 năm 1930 thì Quận uỷ Đức Hoà thành lập, cả bốn anh em Võ Văn Mẫn, Võ Văn Tần, Võ Văn Tây, đều được bầu là Quận uỷ viên, ông Võ Văn Tần là bí thư Quận uỷ. Chi bộ làng Đức Hoà lúc này giao lại cho Võ Văn Tây phụ trách.

Thực hiện chủ trương của Liên tỉnh uỷ Chợ Lớn-Gia Định, ngày 4 tháng 6 năm 1930, anh em Võ Văn Tần, cùng các ông Quận uỷ Đức Hoà đứng ra huy động quần chúng nông dân cả làng tiến về quận lỵ biểu tình “xin thuế” và chống địch đàn áp. Buổi sáng cuộc biểu tình đã buộc tên quận trưởng Sảnh chấp nhận yêu sách nhưng tên này khất lần lẩn trách giải quyết, vì vậy quần chúng nổi dậy tiếp tục đấu tranh kéo dài từ 7 giờ sáng tới 22 giờ đêm. Chập tối, bọn Pháp đem 4 xe chở đầy lính mã tà xông vào đám biểu tình bắt số người đi đầu đánh đập tàn nhẫn, lại thêm cảnh sát từ Sài Gòn và lính Bà Hom sang tiếp viện nổ súng thị uy. Châu Văn Liêm, người lãnh đạo Đảng cao nhất dẫn đầu đoàn biểu tình bước lên không hề nao núng. Địch bắn xả vào quần chúng tay không, giết chết Châu Văn Liêm và làm bị thương hàng chục quần chúng. Đi trong đoàn biểu tình đỏ máu, em của là Võ Thị Càn trúng đạn ở chân, người cháu là Võ Văn Hợi (con ông Võ Văn Mẫn) bị đạn bắn vào tay. Theo hướng dẫn của Võ Văn Tần, và các đảng viên, đoàn biểu tình nhanh chóng giải thoát số người bị chết và bị thương, vừa tìm cách rút lui. Cuộc biểu tình ở Đức Hoà mặc dầu bị đàn áp nhưng buộc địch sau đó phải xuống lệnh giảm thuế, từ 6,50 đồng xuống còn 5 đồng với người “hữu sản” và từ 4,50 đồng xuống còn 4 đồng đối với người “vô sản”.

Sau cuộc biểu tình trên, Xứ uỷ cử Lê Quang Sung về làm bí thư Tỉnh uỷ Chợ Lớn. Được sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, anh em Võ Văn Tần, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của các cơ sở Đảng ở Đức Hoà. Với sự lãnh đạo của các đồng chí, lực lượng nông dân các làng Đức Hoà, Mỹ Hạnh, Hựu Thạnh nhiều đêm đỏ đuốc biểu tình thị uy, xông vào từng nhà việc (công sở) của tề làng đập phá, đốt sở bộ, tung truyền đơn đả đảo thực dân Pháp và địa chủ quan làng, đòi chia lại ruộng đất cho dân cày nghèo, đời địch chấm dứt khủng bố phong trào Nghệ An đỏ. Đêm 22-9-1930 sau một cuộc tuần hành thị uy, một số quần chúng nông dân của làng Mỹ Hạnh nổi giận đập chết hai tên tay sai đắc lực của Pháp là Hương quản Võ Văn Mây và Hương cả Nguyễn Văn Dương ngay cạnh nhà hội tề. Những vụ việc này làm cho bọn Pháp và tay sai hết sức điên cuồng lo sợ, càng ra sức lùng bắt anh em Võ Văn Tần, và các đảng viên cộng sản. Vì thế và các ông ở Đức Hoà phải chuyển vùng, lánh đi nơi khác. bàn với Võ Văn Tần cùng trốn sang quê mẹ ở làng Xuân Thới Thượng thuộc quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định.

Cuối năm 1931 sau vụ phản bội của Ngô Đức Trì và do có một số tay sai làm chỉ điểm, phần lớn các ông lãnh đạo của Tỉnh uỷ Gia Định đều sa vào tay địch. Bản thân Võ Văn Tần cũng đã bị truy nã từ ngày 13-5-1931 về tội “tham gia vụ Ngô Gia Tự và đồng bọn” (Văn bản của địch). Hai anh em Tần và Ngân vẫn tìm mọi cách móc nối, khôi phục lại các cơ sở đã bị phá vỡ rồi tổ chức tái lập lại Tỉnh uỷ Gia Định và được chỉ định làm bí thư. Sau đó sang đầu năm 1932 do nhu cầu công tác, lại được điều qua làm bí thư Tỉnh uỷ Chợ Lớn thay cho ông Võ Văn Tần. Trong mọi hoạt động ở cương vị trọng trách là bí thứ Tỉnh uỷ, vẫn tỏ rõ là các bộ Đảng xuất sắc. Với tác phong luôn sâu sát phong trào quần chúng, lối sống giản dị, hoà mình vào tinh thần tận tuỵ, được các cơ sở và quần chúng tin yêu và hết lòng bảo vệ, vì vậy địch không hề phát hiện được đồng chí. Cuối năm 1932, thực dân Pháp phản kích mạnh các cơ sở Đảng, bắt được cả Hồ Văn Long bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ mợi lập lại. Mặc dù vậy, các chi bộ ở Chợ Lớn do lãnh đạo vẫn tiếp tục giữ vững. Cùng với anh trai, đã đóng góp phần công sức rất lớn vào việc củng cố và duy trì lực lượng của Đảng ở địa phương Chợ Lớn-Gia Định trong suốt thời kỳ cách mạng thoái trào kể từ cuối 1931.

Xứ uỷ bị tan vỡ, bước sang năm 1933 mới được phục hồi, do Trần Văn Giàu (bí danh Hồ Nam) từ Liên Xô trở về lập lại và sau đó trực tiếp lãnh đạo cùng với các ông Phan Vân, Trương Văn Bang. Theo chủ trương của Xứ uỷ và sự chỉ đạo trực tiếp của Trần Văn Giàu, Đặc uỷ Vàm Cỏ Đông thành lập, bao gồm địa bàn hoạt động của các hai tỉnh Tân An và Chợ Lớn (lúc này Nam Bộ còn có Đặc uỷ Đồng Nai và Đặc uỷ Hậu Giang để phụ trách các tỉnh thuộc miền Đông và miền Tây). Là bí thư của Tỉnh uỷ Chợ Lớn đứng chân trong Đặc uỷ Vàm Cỏ Đông, thường xuyên đi về các cơ sở ở Đức Hoà, Trung Quận, Cần Giuộc, có lúc sang cả Hóc Môn để chỉ đạo các hoạt động của Đảng, tổ chức các cuộc đấu tranh của quần chúng.

Do những đóng góp tích cực và hoạt động lăn lộn trong phong trào cách mạng, đầu tháng 3-1935 được các lãnh đạo Xứ uỷ tín nhiệm cử vào cơ quan Xứ uỷ Nam Kỳ và trực tiếp về phụ trách Thành uỷ Sài Gòn-Chợ Lớn. Cũng trong tháng 3-1935 khi các tổ chức Đảng cũng như ở miền Tây Nam Kì, được bầu làm một trong hai đại biểu chính thức cùng với Nguyễn Chánh Nhì (đại biểu miền Tây) thay mặt cho toàn Đảng bộ Nam Kì đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất họp ở Ma Cao, Trung Quốc.

Cuộc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất tiến hành từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm 1935 dưới sự chủ trì của Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng, lúc đó do ông Hà Huy Tập (tức Nhỏ) chủ trì, ông Phùng Chí Kiên (tức Lý) là thư ký, gốm 13 đại biểu tham gia. Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị về nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương, điều lệ sửa đổi, cử đại biểu đi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 7, và chọn những ông tiểu biểu vào Ban Chấp hành Trung ương. Dưới bí danh là ông Xú, tức Mập, tích cực đóng góp vào sự thành công của Đại hội Đảng lần thứ nhất, và ông được bầu là 1[cần dẫn nguồn] trong số 9 uỷ viên chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng do ông Hà Huy Tập làm Tổng bí thư.

Ông Nguyễn Chánh Nhì (sinh năm 1910, đến Đại hội mang bí danh Cổn, Lưu Sinh mới mất tại thành phố Hồ Chí Minh) kể lại rằng: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất tiến hành trong điều kiện hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo, bị thực dân Pháp và mật thám quốc tế khắp Hồng Kông, Quảng Châu, Ma Cao săn lùng. Chúng treo giải thưởng 2.000 đô la cho ai bắt được một đại biểu, lấy đầu là 1.000 đô la, chỉ cho chúng chụp hình bắt cả Đại hội là 10.000 đô la và phong chức tri huyện nếu là người Việt. Hàng chục mật thám được Pháp tung sang Hồng Kông để lùng sục. Thế nhưng Đại hội đã thành công, các đại biểu đều trở về nước an toàn.

Sau Đại hội , Nguyễn Chánh Nhì về Nam Kỳ thì cũng là lúc cơ quan Xứ uỷ lại vừa bị thực dân Pháp phá vỡ, phần lớn các ông trong Xứ uỷ đều bị bắt. cùng với các ông lại bắt tay vào việc khôi phục Xứ uỷ và ông được cử trực tiếp làm bí thư Xứ uỷ lãnh đạo toàn Đảng bộ Nam Kỳ. Vừa lo lập lại tổ chức Đảng từ cấp Xứ uỷ đến các tỉnh, vừa cùng các ông chuẩn bị xây dựng căn cứ ở vùng nông thôn ngoại thành cho Trung ương Đảng về đóng “trụ sở” để thuận tiện việc chỉ đạo phong trào cách mạng.

, Võ Văn Tần đã bàn bạc cùng mấy ông trong Xứ uỷ là Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Văn Khương (Mười Đen), Mai Công Tư… và quyết định chọn làng Tân Thới Nhứt, vùng quê ngoại của ông ở Bà Điểm-Hóc Môn, một nơi chỉ cách xa trung tâm thành phố khoảng 15 cây số nhưng có truyền thống cách mạng lâu đời và quần chúng rất tốt, nơi cơ quan Tỉnh uỷ Gia Định đã đóng trụ sở suốt từ thời kỳ 1930 đến 1935 để làm căn cứ lãnh đạo đầu mối của Trung ương Đảng đối với Nam Bộ và cả nước.

Cuối năm 1936, sau một thời gian chuẩn bị căn cứ chu đáo, ông Hà Huy Tập và Ban Thường vụ Trung ương đã về đóng tại ấp Trung Lân và Tây Bắc Lân, xã Tân Thới Nhứt. Sau khi nhường địa điểm này cho Trung ương, ông Ngân dời cơ quan Xứ uỷ về đóng ở ấp Tân Thới Trung (nay là xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh). Chính tại vùng căn cứ Hóc Môn-Bà Điểm này dp và Võ Văn Tần tổ chức xây dựng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã tiến hành các hội nghị quan trọng lần thứ 4, 5 và 6 một cách an toàn, cho ra đời các Nghị quyết cơ bản, trong đó đặc biệt có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939) về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, quyết định chiều hướng phát triển của cách mạng Việt Nam trong xu thế phát triển của tình hình thế giới, dẫn tới cuộc cách mạng Tháng Tám thành công sau này.

Năm 1936, Mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc bầu cử vào Nghị viện ở chính quốc, Đảng ta chủ trương phát động phong trào Đại hội Đông Dương, thành lập trong toàn quốc những uỷ ban hành động để tập hợp lực lượng quần chúng đấu tranh công khai hợp pháp với nhà cầm quyền phản động ở thuộc địa. Tại Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ do làm bí thư, hàng trăm Ủy ban Hành động ra đời. Mặc dù thực dân Pháp và các phần tử Tờ-rốt-kít ra sức phá hoại nhưng phong trào quần chúng được Đảng lãnh đạo vẫn phát triển mạnh mẽ. Một số đảng viên Cộng sản trúng cử vào Hội đồng Quản hạt của thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn. Nhiều bản kiến nghị tập hợp ý kiến của các tầng lớp đồng bào được gửi lên chính quyền thuộc địa và phái đoàn Nghị viện Pháp. Khắp thành phố và mấy tỉnh Nam Kỳ, quần chúng cách mạng xuống đường mít tinh công khai. Bản thân cùng ông Suyễn (tức Bùi Văn Ngữ, em ruột ông Thủ) và mấy ông nữa ở Xứ uỷ và Thành uỷ trực tiếp chỉ đạo một cuộc biểu tình lớn ở Sài Gòn-Chợ Lớn, gồm hàng chục ngàn đồng bào thành phố và các tỉnh Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho kéo về tham dự, tạo nên một không khí chính trị sôi động đòi quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do hội họp, đòi giảm thuế, tăng lương, bớt giờ làm việc. Chính quyền địch bắt đầu theo dõi để ý hoạt động của , nhưng cũng chỉ trong chừng mực và chưa làm gì được ông. Báo cáo của tên quan tư Nôblô (No Blot) gởi lên Thống đốc Nam Kỳ vào đầu năm 1937 có đoạn viết: “Hồi 11 giờ ngày 11-2-1937 ở Tân Thới Nhứt-Gia Định, Ủy viên Ủy ban Hành động cũ của Bà Điểm tổ chức họp quần chúng”].

Giữa lúc phong trào cách mạng đương phát triển mạnh mẽ và sôi nổi sau những năm tháng bị Pháp đàn áp khốc liệt và cũng chỉ mới bị địch phát hiện lờ mờ, thì ông bắt đầu lâm bệnh, nhiều lúc buộc phải nghỉ ngơi để chữa trị. Trung ương Đảng phải cử Võ Văn Tần lên thay , giữ trách nhiệm bí thư Xứ uỷ và bấu bổ sung vào Trung ương. Mặc dầu vậy, vẫn luôn hết mình quan tâm đến công việc của Đảng. Lúc đau nặng, ông về cơ sở ở làng Bình Lý để chữa chạy, nhưng cơn bệnh vừa dứt thì ông đã có mặt ở Tân Thới Trung để cùng Võ Văn Tần và các ông Xứ uỷ tham gia chỉ đạo các mặt công tác. Dù bệnh nặng đến đâu, ngày đêm vẫn lo ngại và hoạt động quên mình cho sự nghiệp cách mạng nhằm giải phóng dân tộc.

Đầu năm 1938 vì bệnh tình ngày một trầm trọng, được Xứ uỷ đưa chuyển về gia đình ở làng Bình Tả, xã Đức Hoà. Ông qua đời tại đây.

là tên được đặt cho một tuyến đường chính trên địa bàn quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh.

0