Vật chất và ý thức
Phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản của triết học duy vật. Việc nhận thức đúng đắn nội dung của phạm trù này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để khẳng định tính chất khoa học, đúng đắn của quan điểm duy vật biện chứng về thế ...
Phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản của triết học duy vật. Việc nhận thức đúng đắn nội dung của phạm trù này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để khẳng định tính chất khoa học, đúng đắn của quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
Việc khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại của thế giới xung quanh ta, mà trước hết là thế giới những vật thể hữu hình, từ xưa tới nay, luôn luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học đều bằng cách này hay bằng cách khác giải quyết vấn đề này. Và bởi vậy trong triết học, phạm trù vật chất xuất hiện.
Vật chất với tính cách là phạm trù triết học ra đời trong triết học Hy Lạp ở thời kỳ cổ đại. Ngay từ lúc mới xuất hiện, xung quanh phạm trù này đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Cũng với sự tiến triển của tri thức loài người, đến nay nội dung của phạm trù này đã trải qua những biến đổi sâu sắc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó. Đó có thể là “ý chí của Thượng đế”, là “ý niệm tuyệt đối”, hoặc là những quan hệ có tính chất siêu nhiên… Còn trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái tồn tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
Quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác
Quan điểm của các nhà duy vật thời cổ đại
Vào thời cổ đại ở Hy Lạp, các nhà triết học duy vật đều cho có một nguyên thể vật chất đầu tiên là cơ sở thế giới. Họ quy vật chất về cơ sở đầu tiên đó. Quan niệm vật chất của các nhà duy vật cổ đại còn mang tính trực quan, cảm tính, họ đồng nhất vật chất nói chung với những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài.
* Talét coi thực thể của thế giới là nước.
* Anaximen coi thực thể đó là không khí. Với Hêraclít thực thể đó là lửa, còn với Ămpêđôlơ thì thực thể đó bao gồm cả bốn yếu tố: đất, nước, lửa và không khí.
* Anaximanđrơ cho rằng, thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định về mặt chất và vô tận về mặt lượng. Bản nguyên này không thể quan sát được và ông gọi nó là apâyrôn. Sự tương tác giữa các mặt đối lập vốn có trong apâyrôn tạo nên toàn bộ thế giới.
* Lơxíp và Đêmôcrít thì thực thể của thế giới là nguyên tử. Đó là các phần tử cực kỳ nhỏ, cứng, tuyệt đối không thâm nhập được, không quan sát được… và nói chung là không cảm giác được. Nguyên tử chỉ có thể được nhận biết nhờ tư duy. Đêmôcrít hình dung nguyên tử có nhiều loại: có loại góc cạnh, xấu xí; có loại cong, nhẵn; có loại tròn, hình cầu… Sự kết hợp hoặc tách rời nguyên tử theo các trật tự khác nhau của không gian sẽ tạo nên toàn bộ thế giới.
Tóm lại: Những quan điểm trên tuy còn thô sơ, nhưng có ưu điểm căn bản là vật chất được coi là cơ sở đầu tiên của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Điều này đối lập với quan điểm duy tâm tôn giáo coi cơ sở đầu tiên của thế giới là tinh thần, ý thức. Học thuyết nguyên tử là một bước phát triển mới trên con đường hình thành phạm trù vật chất trong triết học, tạo cơ sở triết học mới cho nhận thức khoa học sau này.
Quan điểm của các nhà duy vật thời cận đại
Kế thừa nguyên tử luận cổ đại, các nhà duy vật thời cận đại tiếp tục coi nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được, vẫn tách rời chúng một cách siêu hình với vận động không gian và thời gian. Họ chưa thấy được vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Các nhà triết học của thời kỳ này còn đồng nhất vật chất với một thuộc tính nào đó của vật chất như đồng nhất vật chất với khối lượng, năng lượng.
Định nghĩa vật chất của Lênin
Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa
Một vài phát hiện mới của vật lý vi mô hiện đại cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi xuất hiện những phát minh mới trong khoa học tự nhiên, con người mới có được những hiểu biết căn bản hơn và sâu sắc hơn về nguyên tử. Những phát minh tiêu biểu mang ý nghĩa vạch thời đại như:
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X, một loại sóng điện tử có bước sóng từ 0,01 đến 100.10-8cm.
Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. Với hiện tượng này, người ta hiểu rằng, quan niệm về sự bất biến của nguyên tử là không chính xác.
Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu tiên trong khoa học, sự tồn tại hiện thực của nguyên tử đã được chứng minh bằng thực nghiệm.
Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là khối lượng tĩnh mà là khối lượng điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng
Như vậy, từ những phát minh trên mâu thuẫn với quan niệm quy vật chất về nguyên tử hay khối lượng. Chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tình hình để la lối lên rằng: nếu nguyên tử bị phá vỡ thì tức là vật chất đã tiêu tan, và chủ nghĩa duy vật dựa trên nền tảng là vật chất cũng không thể đứng vững được nữa.
Nhận xét của Lênin về cuộc khủng hoảng và cách giải quyết
Trong tác phẩm “ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V.I.Lênin đã phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ rõ:
Những phát minh có giá trị to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Không phải “vật chất tiêu tan” mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan. Nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là giới hạn của sự nhận thức về vật chất.Theo V.I.
Lênin những phát minh mới nhất của khoa học tự nhiên không hề bác bỏ vật chất mà chỉ làm rõ hơn hiểu biết còn hạn chế của con người về vật chất. Giới hạn tri thức của chúng ta hôm qua về vật chất còn là nguyên tử thì hôm nay đã là các hạt cơ bản và ngày mai chính cái giới hạn đó sẽ mất đi. Nhận thức của con người ngày càng đi sâu vào vật chất, phát hiện ra những kết cấu mới của nó.
Tình hình mới của lịch sử và thời đại đặt ra là phải chống lại chủ nghĩa duy tâm các loại, khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác trong quan niệm về vật chất. Muốn vậy, phải có một quan niệm đúng đắn, đầy đủ và chính xác về vật chất. Lênin đã hoàn thành nhiệm vụ đó.
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên, kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, năm 1908, trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán Lênin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện và khoa học về phạm trù vật chất.
Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Chúng ta đi phân tích định nghĩa này theo một số nội dung chính sau:
Phương pháp định nghĩa vật chất của Lênin
Theo V.I Lênin, không thể định nghĩa vật chất bằng phương pháp định nghĩa các khái niệm thông thường. Phương pháp định nghĩa thông thường là quy khái niệm cần định nghĩa vào một khái niệm khác rộng hơn, đồng thời chỉ ra đặc điểm riêng của nó.
Định nghĩa hình vuông:
+ Trước hết nó là hình tứ giác.
+ Song, nó có đặc điểm riêng là: có 4 cạnh bằng nhau, 4 góc vuông, có hai đường chéo bằng nhau, giao điểm giữa hai đường chéo vuông góc và chia đường chéo thành hai nửa bằng nhau
Do vậy, với phạm trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học- một phạm trù khái quát nhất và rộng cùng cực, không thể có một phạm trù nào rộng hơn, thì duy nhất về mặt phương pháp luận chỉ có thể định nghĩa vật chất bằng cách đối lập nó với ý thức, xác định nó “là cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây ra cảm giác”. V.I.Lênin khẳng định vật chất không có nghĩa gì khác hơn là “thực tại khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người, và được ý thức con người phản ánh”.
Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Định nghĩa bao gồm những nội dung cơ bản như sau:
Một là: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan:
* Khi nói vật chất là một phạm trù triết học - nó là sự trừu tượng.
* Song, sự trừu tượng này lại chỉ rõ cái đặc trưng nhất, bản chất nhất mà bất kỳ mọi sự vật hiện tượng cụ thể nào cũng có đó là: tồn tại khách quan và độc lập với ý thức của con người. Đặc tính này là tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Do đó, khi nghiên cứu nội dung này càn phải chú ý cả hai khía cạnh phân biệt nhau nhưng lại gắn bó với nhau: đó là tính trừu tượng và tính cụ thể của vật chất.
+ Nếu chỉ thấy tính trừu tượng, thổi phồng tính trừu tượng, mà quên mất biểu hiện cụ thể của vật chất thì không thấy vật chất đâu cả ∈ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
+ Ngược lại: nếu chỉ thấy tính cụ thể của vật chất sẽ đồng nhất vật chất với vật thể.
* Ý nghĩa của nội dung này:
+ Thứ nhất: khắc phục triệt để sai lầm cơ bản của chủ nghĩa duy vật trước Mác quy vật chất vào một dạng cụ thể. Nội dung này trong định nghĩa Lênin đã đưa học thuyết duy vật tiến lên một bước mới, đáp ứng được những đòi hỏi mới do những phát minh mới của khoa học tự nhiên tạo ra.
+ Thứ hai: cho chúng ta cơ sở khoa học để nhận thức vật chất dưới dạng xã hội, đó là những quan hệ sản xuất, tổng hợp các quan hệ sản xuất là cơ sở hạ tầng, tạo thành quan hệ vật chất, và từ đây làm nảy sinh quan hệ tư tưởng, đó là kiến trúc thượng tầng. Đây là điều mà các nhà duy vật trước C.Mác cũng chưa đạt tới. Định nghĩa của V.I Lênin giúp cho các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất; trên cơ sở đó, người ta có thể tìm ra phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.
Hai là: Thực tại khách quan được đem lại cho con người ta trong cảm giác và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Với nội dung này, V.I Lênin muốn chỉ rõ:
* Thực tại khách quan (tức vật chất) là cái có trước ý thức, không phụ thuộc vào ý thức, còn cảm giác (tức ý thức) của con người có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất.
* Vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của tri thức, là nguyên nhân phát sinh ra ý thức, không có cái bị phản ánh là vật chất thì sẽ không có cái phản ánh là ý thức.
* Ý nghĩa của nội dung này: nó chống lại mọi luận điệu sai lầm của chủ nghĩa duy tâm (cả khách quan và chủ quan và nhị nguyên luận) là những trường phái triết học cố luận giải tinh thần là cái quyết định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh.
Ba là: thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh. Với nội dung này, Lênin muốn chứng minh rằng:
* Vật chất tồn tại khách quan, dưới dạng các sự vật hiện tượng cụ thể mà con người bằng các giác quan có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được.
* Ngoài dấu hiệu tồn tại khách quan, vật chất còn có một dấu hiệu quan trọng khác là tính có thể nhận thức được. Vì vậy, về nguyên tắc, không có đối tượng nào không thể nhận biết được, chỉ có đối tượng chưa nhận thức được mà thôi.
* Ý nghĩa của nội dung này:
Thứ nhất: Hoàn toàn bác bỏ thuyết không thể biết;
Thứ hai: Cổ vũ động viên các nhà khoa học đi sâu vào thế giới vật chất, phát hiện ra những kết cấu mới, những thuộc tính mới cũng như những quy luật vận động và phát triển của thế giới, từ đó, làm giàu thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Tháng 9/1995 tại Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN), theo các lý thuyết về phản hạt, các nhà khoa học đã tiến hành một thực nghiệm tạo ra được 9 phản nguyên tử, tức là 9 phản vật thể đầu tiên, loài người đã có thêm một cơ sở khoa học tin cậy để khẳng định giá trị to lớn của định nghĩa vật chất. Thực nghiệm một lần nữa chứng tỏ rằng, phản nguyên tử cũng là thực tại khách quan, con người nhờ sự trợ giúp của các phương tiện hiện đại ngày càng nhận thức được một cách sâu sắc hơn những kết cấu phức tạp của thế giới vật chất.
Tóm lại: định nghĩa vật chất của V.I Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1.Vật chất - là những thực thể tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức.
2. Vật chất - là cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó (trực tiếp hoặc gián tiếp) tác động lên giác quan của con người.
3.Vật chất - là cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra trong định nghĩa vật chất của Lênin
* Vì vật chất có trước, quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn “phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan”.Cụ thể:
+ Phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm cơ sở cho mọi hành động của mình; không được lấy ý muốn chủ quan làm điểm xuất phát.
+ Khi đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cho địa phương mình, đơn vị mình, ngành mình, phải nắm chắc tình hình thực tế khách quan thì mới nêu ra mục đích, chủ trương đúng và sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt động thực tiễn.
* Chống thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan, không đếm xỉa đến điều kiện vật chất khách quan, tuỳ tiện, phiến diện, lấy ý muốn, nguyện vọng, cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương chính sách; hậu quả là đường lối không hiện thực, không tưởng và tất yếu sẽ đi đến thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Phương thức và các hình thức tồn tại của vật chất
Trong triết học, khi bàn tới phạm trù vật chất, đương nhiên chúng ta phải bàn tới các phạm trù liên quan tới việc làm sáng tỏ phương thức tồn tại của nó. Đó là các phạm trù vận động, không gian và thời gian. Chúng trả lời trực tiếp vấn đề vật chất tồn tại bằng cách nào?
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Vận động là gì?
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Ph. Ăngghen viết: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất (…) bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Tại sao nói vận động là phương thức tồn tại của vật chất
* Theo Ph. Ăngghen, vận động “là thuộc tính cố hữu của vật chất”, “là phương thức tồn tại của vật chất”2. Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình. “Không thể hình dung nổi” “vật chất không có vận động”3. Và ngược lại cũng không thể tưởng tượng nổi có thứ vận động nào lại không phải là vận động của vật chất, không phụ thuộc vào vật chất. Sự vận động của ý thức, tư duy, trên thực tế cũng là sản phẩm của sự vận động của vật chất.
Trong quá trình khám phá thế giới khách quan, việc nhận thức sự vận động của vật chất trong các dạng khác nhau của nó, về thực chất, là đồng nghĩa với nhận thức bản thân vật chất. “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về một vật thể không vận động thì không có gì mà nói cả”.
* Với tính cách là thuộc tính bên trong, vốn có của vật chất, theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, vận động là sự tự vận động của vật chất. Có nghĩa là:
+ Nguồn gốc của sự vận động nằm ngay trong bản thân sự vật, do sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc của vật chất.
+ Vận động không do ai sáng tạo ra và cũng không bao giờ mấy đi, nó chỉ chuyển hoá từ hình thức vận động này sang hình thức vận động khác.
+ Quan điểm về sự tự vận động của vật chất trong triết học Mác - Lênin về cơ bản đã được chứng minh bởi những thành tựu của khoa học tự nhiên và càng ngày những phát kiến mới nhất của khoa học hiện đại càng khẳng định quan điểm đó.
Những hình thức vận động cơ bản của vật chất.
* Khi nghiên cứu các hình thức vận động của vật chất, theo những tiêu chí phân loại khác nhau, người ta có thể chia vận động của vật chất thành các hình thức vận động khác nhau. Tuy nhiên, cho tới nay, cách phân loại phổ biến nhất trong khoa học vẫn là chia vận động thành 5 hình thức cơ bản như sau:
1. Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
2. Vận động vật lý (vận động của các phần tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt, điện, v.v…).
3. Vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp và phân giải các chất).
4. Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường).
5. Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế của các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế -xã hội).
* Những hình thức này quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất định:
1. Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động. Những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất.
2. Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi các hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao. Bởi vậy, mọi sự quy giản các hình thức vận động cao về các hình thức vận động thấp hơn đều là sai lầm.
3. Trong sự tồn tại của mình, mỗi một sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Thí dụ vận động cơ học, vật lý, hoá học, sinh học đều là những hình thức vận động khác nhau trong cơ thể sinh vật, nhưng hình thức vận động sinh học mới là đặc trưng cơ bản của sinh học. Đối với con người thì vận động xã hội là hình thức đặc trưng cho hoạt động của nó.
Vận động và đứng im
Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận rằng quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất chẳng những không loại trừ mà còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im tương đối, không có hiện tượng đứng im thì không có sự vật nào tồn tại được.
* Đứng im là tương đối hay là trạng thái cân bằng tạm thời của sự vật trong quá trình vận động của nó, còn vận động là tuyệt đối, bởi vì:
+ Trên thực tế, đứng im chỉ xảy ra khi sự vật được xem xét trong một quan hệ nào đó.
+ Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một hình thức vận động.
+ Hiện tượng đứng im chỉ là biểu hiện của trạng thái vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Chính nhờ trạng thái ổn định này mà vật chất biểu hiện thành các sự vật, hiện tượng cụ thể và qua đó sự vật mới có điều kiện để thực hiện sự phân hoá tiếp theo.
Không gian và thời gian
Khái niệm không gian và thời gian
Trong triết học duy vật biện chứng cùng với phạm trù vận động thì không gian và thời gian cũng là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại của vật chất. V.I.Lênin đã nhận xét rằng: “Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”.
* Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định, ở một khung cảnh nhất định trong tương quan về kích thước so với các khách thể khác… Các hình thức tồn tại như vậy của vật thể được gọi là không gian.
* Sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của hiện tượng, của sự kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận động… Những thuộc tính này của sự vật được đặc trưng bằng phạm trù thời gian.
Như vậy, không gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật chất. Không gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết cấu; còn thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá trình.
Tuy vậy, trong lịch sử triết học, xung quanh phạm trù không gian và thời gian đã từng có rất nhiều vấn đề nan giải gây tranh cãi.
+ Những người theo chủ nghĩa duy tâm thường phủ nhận tính khách quan của không gian và thời gian.
+ Các nhà duy vật siêu hình ở thế kỷ XVII - XVIII tách rời không gian và thời gian với vật chất. I.Niutơn cho rằng không gian, thời gian và vận động là những thực thể nào đó ở bên ngoài vật chất và không có liên hệ với nhau. Khi phê phán quan điểm đó của các nhà duy vật siêu hình, Ph. Ăngghen cho không gian và thời gian gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau và cả hai đều là thuộc tính cố hữu của vật chất. Chúng là hình thức tồn tại của vật chất không thể có vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian và thời gian, cũng như không thể có không gian, thời gian nào tồn tại bên ngoài vật chất.
Đầu thế kỷ XX, thuyết tương đối của A. Anhxtanh ra đời, đã chứng minh một cách hùng hồn luận điểm thiên tài trên đây của Ph. Ăngghen. Thuyết tương đối cũng đem lại bức tranh về sự thống nhất giữa không gian và thời gian. Như vậy thuyết tương đối đã bác bỏ tính bất biến của không gian, thời gian; chứng minh tính biến đổi của không gian, thời gian cùng với sự vận động của vật chất, một lần nữa khẳng định không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.
Tính chất của không gian và thời gian
1. Tính khách quan. không gian, thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan.
2. Tính vĩnh cửu và vô tận. theo Ph.Ăngghen, vật chất vĩnh cửu và vô tận trong không gian và thời gian. Vô tận có nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về phía trên lẫn phía dưới, cả về bên phải lẫn bên trái. Những thành tựu của vật lý học vi mô cũng như những thành tựu của vũ trụ học ngày càng xác nhận tính vĩnh cửu và tính vô tận của không gian và thời gian.
3. Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian: tính ba chiều của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao, tính một chiều của thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai. Không gian mà chúng ta đang nói tới ở đây là không gian hiện thực, không gian ba chiều. Nên chú ý rằng, trong toán học ngoài phạm trù không gian ba chiều còn có phạm trù không gian n chiều, v.v… Đó là sự trừu tượng hoá toán học, một công cụ toán học dùng để nghiên cứu các đối tượng đặc thù.
Tính thống nhất vật chất của thế giới
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính thống nhất vật chất của thế giới
Khuynh hướng chung của các trường phái duy vật là tìm nguồn gốc, bản chất sự thống nhất của thế giới vật chất ngay trong bản thân nó. Trong thời cận đại cũng như cả trong thời đại cổ đại, việc phủ nhận lực lượng siêu tự nhiên và việc thừa nhận sự thống nhất vật chất của thế giới không tách rời nhau. Nếu như các nhà triết học tự nhiên thời cổ đại và phục hưng đã luận chứng nguyên tắc thống nhất vật chất của thế giới bằng cách quy cái siêu tự nhiên về cái tự nhiên, về cái có thể thụ cảm cảm tính được, thì các nhà duy vật thời cận đại đã chứng minh sự thống nhất vật chất của thế giới phù hợp với nhất nguyên luận duy vật bằng những thành tựu của khoa học tự nhiên thời đó.
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi chính cuộc sống hiện thực của con người và nó trở thành cơ sở cho cuộc sống và hoạt động của con người. Con người không thể bằng ý thức mà sản sinh ra các đối tượng vật chất được. Con người chỉ có cải biến thế giới vật chất theo những quy luật vốn có của nó.
Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã chứng minh cho các luận điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính thống nhất vật chất của thế giới
Sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm duy tâm và tôn giáo tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới từ thần thánh, từ những lực lượng siêu tự nhiên. Nếu như tôn giáo chia thế giới thành ba bộ phận tuyệt đối khác nhau về bản chất - trần gian, địa ngục và thiên đường, do những đấng thiêng liêng nào đó tạo ra và chi phối, thì trái lại, khoa học tự nhiên và triết học duy vật đã chứng minh rằng, thế giới xung quanh ta từ những vật vô cùng lớn đến vật vô cùng nhỏ, từ tự nhiên đến xã hội, từ giới vô sinh đến giới hữu sinh, từ thực vật đến động vật, tuy rất khác nhau, song đều có cùng bản chất vật chất và thống nhất ở bản chất vật chất ấy. Tính thống nhất vật chất của thế giới không loại trừ tính đa dạng của thế giới; nó bao hàm tính đa dạng, tính muôn hình muôn vẻ về chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
* Trong thế kỷ XIX, những phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên: thuyết tế bào, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tiến hoá các loài đã có ý nghĩa lớn lao để chứng minh luận điểm về sự thống nhất vật chất của thế giới.
* Sự phát triển của khoa học hiện đại tiếp tục chứng minh nguyên lý về sự thống nhất vật chất của thế giới bằng những thành tựu mới.
+ Vật lý học đã đi sâu vào thế giới vi mô, nghiên cứu cấu trúc phức tạp và chuyển hoá lẫn nhau của các hạt cơ bản.
+ Những thành tựu to lớn của hoá học cho phép tạo ra nhiều vật liệu tổng hợp mới và các sản phẩm khác nhau mà trước đây chưa gặp trong tự nhiên lại càng làm củng cố niềm tin con người vào sự thống nhất vật chất của thế giới.
+ Góp phần vào việc luận chứng vấn đề này còn có những nghiên cứu về sự sống ở trình độ phân tử, sự phát triển di truyền học, những nghiên cứu về cấu trúc của bộ não người và nghiên cứu những phương pháp điều khiển hoạt động tâm lý của con người, sự phát triển mạnh mẽ của điều khiển học và việc chế tạo các máy tính điện tử. Tất cả những thành tựu đó làm sâu sắc thêm nhận thức của chúng ta về thành phần, về kết cấu của thế giới vật chất, về những đặc điểm hoạt động và phát triển của nó trên các trình độ tổ chức khác nhau của vật chất.
* Khoa học hiện đại đã đi sâu nghiên cứu cấu tạo của vật chất. Người ta đã chia ra các trình độ tổ chức vật chất hay các dạng vật chất khác nhau như sau:
+ Trong giới tự nhiên vô sinh, có hai dạng vật chất cơ bản là chất và trường. Chất là cái gián đoạn, được tạo ra từ các hạt, có khối lượng (m), có cấu trúc thứ bậc bắt đầu từ nguyên tử và cuối cùng là các thiên thể cực kỳ lớn. Còn trường (như trường hấp dẫn, trường điện tử, trường hạt nhân…) là môi trường vật chất liên tục, không có khối tượng tĩnh (m0). Trường làm cho các hạt liên kết với nhau, tác động với nhau và nhờ đó mới tồn tại được. Tuy nhiên, ranh giới giữa chất và trường cũng là tương đối;
+ Trong giới tự nhiên hữu sinh, có các trình độ tổ chức vật chất là: sinh quyển - sinh khu -quần thể - cơ thể đa bào - tế bào - tiền tế bào; các axít nuclêích (AND và ARN) và chất đản bạch. Sự phát triển của sinh học hiện đại đã tìm ra được nhiều mắt khâu trung gian chuyển hoá giữa các trình độ tổ chức vật chất, cho phép nối liền vô cơ, hữu cơ và sự sống. Thực vật, động vật và cơ thể con người có sự giống nhau về thành phần vô cơ, cấu trúc và phân hoá tế bào, về cơ chế di truyền sự sống…
Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên đã giúp cho chủ nghĩa duy vật biện chứng có cơ sở để khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng đều có cùng bản chất vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất và thông qua tính vật chất. Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận cả bề rộng lẫn bề sâu. Vật chất không được sinh ra và không bị mất đi mà chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác. Trong thế giới, không có nơi nào và lúc nào có gì khác ngoài vật chất đang vận động, chuyển hoá và những cái do vật chất vận động, chuyển hoá mà sinh ra.
Xã hội loài người là cấp độ cao nhất của cấu tạo vật chất, là cấp độ đặc biệt của tổ chức vật chất. Xã hội là một bộ phận thế giới vật chất có nền tảng tự nhiên, có kết cấu và quy luật vận động khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người. Vật chất dưới dạng xã hội là kết quả hoạt động của con người. Con người có vai trò năng động, sáng tạo trong thế giới vật chất.
Như vậy, thế giới - cả tự nhiên lẫn xã hội - về bản chất là vật chất, thống nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô số những biểu hiện muôn hình muôn vẻ.
- Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc về vấn đề cơ bản của triết học
- Vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một vấn đề hết sức phức tạp của triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử. Dựa trên những thành tựu của triết học duy vật, của khoa học và thực tiễn xã hội, triết học Mác -Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên đây.
Nguồn gốc của ý thức
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử - xã hội. Do đó, cần xem xét nguồn gốc của ý thức trên cả hai mặt tự nhiên và xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên.
Ý thức là sản phẩm, là thuộc tính riêng có của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người.
* Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức.
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó, khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy, không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra, hoạt động tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học- kỹ thuật hiện đại đã tạo ra những máy móc thay thế cho một phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn các máy tính điện tử, rôbốt “tinh khôn”, trí tuệ nhân tạo. Song điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như con người. Máy móc không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con người. Do đó, chỉ có con người với bộ óc của mình mới có ý thức theo đúng nghĩa của từ đó.
Thuộc tính phản ánh của vật chất dẫn đến sự ra đời của ý thức.
Nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Thuộc tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật - vật tác động và vật nhận tác động. Đồng thời, quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin. Nói cách khác, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Các hình thức phản ánh của vật chất và sự ra đời của ý thức
Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp dến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
* Trong giới tự nhiên vô sinh, chỉ có những phản ánh vật lý, hoá học. Những phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng, sự lựa chọn.
* Trong giới tự nhiên hữu sinh, sự phản ánh đã phát triển lên một trình độ cao hơn là phản ánh sinh học. Phản ánh sinh học trong các cơ thể sống đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó, các sinh vật thích nghi với môi trường để duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh sinh học được thực hiện thông qua các hình thức như sự kích thích trong cơ thể do tác động của môi trường ở thực vật, các phản xạ ở động vật có hệ thần kinh và tâm lý ở động vật cấp cao có bộ óc. Tâm lý động vật là trình độ cao nhất của sự phản ánh ở động vật. Tuy nhiên, tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối.
* Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ là sự nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất, nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh.
Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra. Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội.
Vai trò của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người và sự ra đời của ý thức
Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã hội, và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội.
Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.
Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người. Như vậy, không phải bỗng nhiên thế giới khách quan tác động vào bộ óc người để con người có ý thức, mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới.
Con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới, nhờ tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Vai trò của ngôn ngữ trong việc ra đời và phát triển ý thức
* Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, trao đổi tư tưởng cho nhau. Chính như cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ph. Ăngghen viết: “Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”.
* Ngôn ngữ do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này - tức ngôn ngữ, thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C.Mác, là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
* Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ, con người mới có thể khái quát hóa, trừu tượng hoá, mới có thể suy nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính. Mặt khác, nếu ở động vật, kinh nghiệm sống chủ yếu được trao đổi qua di truyền bản năng, thì ở loài người chủ yếu qua kỹ thuật và ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của người này được truyền cho người kia, thế hệ này cho thế hệ khác. Ý thức không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các cơ quan xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
Bản chất của ý thức
Dựa trên lý luận phản ánh của mình, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết một cách khoa học vấn đề bản chất của ý thức. Trước C.Mác, các nhà duy vật đều thừa nhận sự vật vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự phản ánh sự vật đó. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng bởi quan điểm siêu hình nên nhiều nhà duy vật trước C.Mác đã coi ý thức là sự phản ánh thụ động, giản đơn, máy móc sự vật mà không thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức, tính biện chứng của quá trình phản ánh. Trái lại, các nhà duy tâm lại cường điệu tính năng động sáng tạo của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất, chứ không phải là sự phản ánh của vật chất.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật Mác xít về bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người
Điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức là phải thừa nhận ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh, ý thức là ảnh chứ không phải là bản thân vật; còn vật chất là cái được phản ánh, tồn tại ở bên ngoài và độc lập với cái phản ánh là ý thức. Vì vậy, cả vật chất và ý thức đều là “hiện thực” nghĩa là đều tồn tại. Nhưng ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, là hiện thực chủ quan chủ quan, là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người, hay là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Khẳng định ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan có nghĩa là nói ý thức không phải là vật chất nhưng ý thức lại có nguồn gốc từ vật chất và thuộc về thế giới vật chất. Do đó, Lênin viết: trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động
Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động, máy móc của sự vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng tạo. Do đó, ý thức con người là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”1.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán, dự báo tương lai (phản ánh vượt trước), có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao, thậm chí ở một số người có những khả năng đặc biệt như tiên tri, thôi miên, ngoại cảm, thấu thị, v.v… Những khả năng đó càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý - ý thức ở con người mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng “kỳ lạ” đó.
Ý thức là sự phản ánh khách quan một cách chủ động và tích cực
Phản ánh của ý thức không phải là phản ánh tuỳ tiện, mà trong quá trình phản ánh con người chủ động tác động vào sự vật, hiện tượng, bắt sự vật hiện tượng bộc lộ đặc tính của mình, để qua đó con người khái quát, nhận thức được tính quy luật của sự vật hiện tượng
Con người không những phản ánh sự vật một cách chủ động mà còn biết vận dụng tri thức về sự vật, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của mình để cải tạo hiện thực khách quan theo mục đích của mình.
Ý thức mang bản chất xã hội
Ý thức ra đời và phát triển do nhu cầu và trên cơ sở của lao động (phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người) và các hình thức hoạt động xã hội khác. Do đó, xét về bản chất thì ý thức có tính xã hội. Con người tách khỏi xã hội sẽ không hình thành được ý thức.
Tóm lại
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự phản ánh đặc biệt - phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá trình ý thức là một quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến cái ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Điều đó càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần.
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức - trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động sáng tạo của bộ óc.
Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với nhau. Có thể phân chia kết cấu đó theo nhiều “lát cắt” khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận. Ở đây, có thể chia cấu trúc đó theo hai chiều sau đây:
Theo chiều ngang
Bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí…Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, là cốt lõi.
Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới khách quan. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người…và có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức cảm tính và tri thức lý tính, tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học vv…
Để cải tạo tự nhiên và xã hội, con người phải có hiểu biết về thế giới, nghĩa là, phải có tri thức về sự vật. Do đó mọi hiện tượng ý thức đều có nội dung tri thức ở mức độ nhất định. Theo Mác, tri thức là phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức…
Quá trình hình thành và phát triển của ý thức cũng là quá trình con người tìm kiếm, tích luỹ tri thức về thế giới xung quanh. Càng hiểu biết về sự vật thì ý thức về sự vật càng sâu sắc.
Tuy nhiên, sự tác động của thế giới bên ngoài đến con người không chỉ đem lại hiểu biết về thế giới mà còn đem lại tình cảm của con người đối với thế giới. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. Tri thức có biến thành tình cảm mãnh liệt mới sâu sắc và phải thông qua tình cảm thì tri thức mới biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.
Theo chiều dọc
- 1 Cạnh tranh
- 2 Binh Phuoc Cashew Association
- 3 Vị trí của tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh và vai trò của kế toán trong công tác quản lý và sử dụng tài sản cố định
- 4 Nội dung hạch toán tiền lương
- 5 Nội dung của quản trị nhân sự
- 6 Định nghĩa và vai trò ngân sách
- 7 Lời nói đầu - Mạng doanh nghiệp
- 8 Sự phân chia các vùng tần số (Frequency Allocations).
- 9 Võ cổ truyền Việt Nam
- 10 Mật độ dân số