Vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm
Như đã trình bày, chất lượng sản phẩm mang ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp, hiểu rõ, hiểu sâu về chất lượng sản phẩm không chưa đủ nói lên điều gì vì không phải cứ sản xuất sản phẩm ra là đã có chất lượng mà điều tối quan trọng là chúng ta phải tác ...
Như đã trình bày, chất lượng sản phẩm mang ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp, hiểu rõ, hiểu sâu về chất lượng sản phẩm không chưa đủ nói lên điều gì vì không phải cứ sản xuất sản phẩm ra là đã có chất lượng mà điều tối quan trọng là chúng ta phải tác động vào nó, quản lý nó theo đúng mục tiêu đã định. Vậy quản lý chất lượng là gì ? Và quản lý như thế nào cho có hiệu quả lại la vấn đề rất phức tạp và cũng có không ít các quan điểm, các trường phái khác nhau nhìn nhận về cùng một vấn đề này. Mà chính lý do đó mà quản lý chất lượng ngày một hoàn thiện hơn tương xứng với tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm. Ta hãy nghiên cứu vấn đề này qua các nội dung sau.
Quản lý chất lượng sản phẩm.
Cũng như chất lượng sản phẩm, quản lý chất lượng sản phẩm cũng có nhiều cách nhìn khác nhau do nó phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng quản lý, và vị trí của chủ thể quản lý đối với đối tượng vật chất.
Ta đều nhất trí với nhau rằng mục tiêu then chốt của quản lý chất lượng sản phẩm là tạo ra những sản phẩm thoả mãn nhu cầu xã hội. Thoả mãn thị trường với chi phí xã hội thấp nhất nhờ các hoạt động bảo đảm chất lượng của đồ án thiết kế sản phẩm, tuân thủ đồ án ấy trong quá trình sản xuất cũng như sử dụng sản phẩm. Một mục tiêu có thể có nhiều phương pháp khác nhau để cùng đạt được mục tiêu đó. Do vậy ta cũng có thể tìm hiểu một số khái niệm.
- AG.Robertson nhà quản lý người Anh nêu khái niệm: “ Quản lý chất lượng sản phẩm là ứng dụng các biện pháp, thủ tục, kiến thức khoa học kỹ thuật đảm bảo cho các sản phẩm đang hoặc sẽ phù hợp với thiết kế, với yêu cầu trong hợp đồng kinh tế bằng con đường hiệu quả nhất, kinh tế nhất”.
- A.Faygenbaum- Giáo sư mỹ lại nói rằng: “ Quản lý chất lượng sản phẩm- đó là một hệ thống hoạt động thống nhất có hiệu quả nhất của các đơn vị khác nhau trong một đơn vị kinh tế, chịu trách hiệm triển khai các thông số chất lượng, duy trì mức chất lượng đã đạt được và nâng cao nó để đảm bảo sản xuất và sản xuất một cách kinh tế nhất, thoả mãn nhu cầu thị trường.”
- K.Ishikawa- Giáo sư người Nhật cho rằng: “Quản lý chất lượng sản phẩm có nghĩa là nghiên cứu triển khai, thiết kế, sản xuất và bảo dưỡng một sản phẩm có chất lượng kinh tế nhất, có ích nhất cho người tiêu dùng và bao giờ cũng thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng”. Cũng theo ông, để giải quyết được nhiệm vụ này, tất cả cán bộ của hãng, những người lãnh đạo cao nhất, cán bộ tất cả các bộ phận và tất cả công nhân đều phải tham gia vào hoạt động quản lý chất lượng và bằng mọi cách tạo điều kiện cho nó phát triển.
- Jonhs Oakland- Giáo sư về quản lý chất lượng của trường đại học Bradfoce vương quốc Anh đưa ra khái niệm: “ Quản lý chất lượng sản phẩm về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật được sử dụng nhằm đạt được và duy trì chất lượng của một sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ. Việc đó không chỉ bao gồm việc theo dõi, mà cả việc tìm hiểu và loại trừ các nguyên nhân gây ra những trục trặc về chất lượng để các yêu cầu của khách hàng có thể được liên tục đáp ứng”.
Theo định nghĩa này thì mục tiêu của quản lý chất lượng nằm trên toàn bộ chu kỳ sống của sản phẩm và đưa ra các biện pháp khá phổ biến để đạt được mục tiêu.
Ta có thể dẽ dàng nhận thấy, các khái niệm trên mặc dù có cách trình bày khác nhau song về cơ bản đều trả lời ba câu hỏi:
- Quản lý chất lượng nhằm mục đích gì ?
- Quản lý chất lượng thực hiện ở những biện pháp nào ?
- Quản lý chất lượng bằng những biện pháp nào ?
theo TCVN 5814- 94: “ Quản lý chất lượng là tập hợp những hoạt động của chức năng quản lý chung, xác định chính sách chất lượng, mục đích, trách nhiệm và thực hiện thông qua các biện pháp như: Lập kế hoạch chất lượng, điều hiển kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ hệ chất lượng”.
Ta sử dụng khái niệm quản lý chất lượng theo ISO 8402- 94 để làm phương pháp luận cho công tác quản lý chất lượng, tạo sự phù hợp cho công tác quản lý chất lượng nước ta với tiêu chuẩn hoá của thế giới trong giai đoạn mở cửa, hội nhập kinh tế.
“ Quản lý chất lượng là một hoạt động của chức năng quản lý chung nhằm đề ra các chính sách, mục tiêu và trách nhiệm và thự hiện chúng bằng các biện pháp như hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ hệ thống chất lượng”.
Sự cần thiết phải quản lý chất lượng sản phẩm.
Vấn đê chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm là sự sống còn của doanh nghiệp:
Quản lý chất lượng sản phẩm sẽ cho chúng ta một cách sử dụng hợp lý nhất, tiết kiệm nhất các nguồn lực của doanh nghiệp. Quản lý tốt các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm sẽ làm giảm hàng kém phẩm chất làm ra hàng có chất lượng tốt hơn, làm giảm giá thành sản phẩm.
Ta có thể nhận thấy giữa vấn đề giảm giá thành sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm là không mâu thuẫn và hoàn toàn có thể thực hiện được nhờ công tác quản lý chất lượng.
Ta hãy xét đến việc sản xuất ra một sản phẩm có chất lượng kém thì tất phải loại bỏ, sữa chữa dẫn đến tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng nhân công... và làm cho chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm tăng cao. Vậy nên ta phải đưa các biện pháp quản lý vào từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình tạo ra chất lượng sản phẩm làm giảm được tỷ lệ hàng hỏng, giá thành sản phẩm sẽ hạ xuống và chất lượng sản phẩm nhờ đó mà tăng lên.
Quy luật cạnh tranh vừa là đòn bẩy để các doanh nghiệp tiến lên đà phát triển, hoà nhập với thị trường khu vực và thế giới song nó cũng gây sức ép lớn cho các doanh nghiệp. Trong kinh doanh nếu như đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu thì tất về lâu dài doanh nghiệp sẽ nằm ra ngoài quỹ đạo của thị trường. Đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp ta có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau song chỉ tiêu chất lượng sản phẩm là quan trọng nhất. Vậy nên, quản lý chất lượng chính là phương thức mà doanh nghiệp cần tiếp cận và hoàn thiện hệ thống của mình. Có như vậy doanh nghiệp mới có khả năng thắng lợi trên thương trường.
Quản lý chất lượng sản phẩm là yêu cầu của xã hội.
- Nhu cầu con người ngày một cao nên những đòi hỏi của họ về sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú. Trong khi hàng hoá không chỉ sản xuất ra ở một quốc gia mà nó có sự giao thoa nhau mà sản phẩm nào có chất lượng cao sẽ thắng thế.
Đáp ứng yêu cầu đó, các nhà sản xuất kinh doanh phải có các biện pháp quản lý chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ một cách hợp lý để sản phẩm có uy tín với người tiêu dùng, phù hợp quy định quốc gia và quốc tế.
- Yêu cầu về tiết kiệm đòi hỏi ta phải quản lý chất lượng sản phẩm.
Các nguồn lực cho sản xuất sản phẩm đều có giới hạn nếu như chúng ta không khai thác hợp lý thì sẽ gây lãng phí và những hậu qủa xấu về kinh tế- xã hội, môi trường. Tiết kiệm trong sản xuất là một giải pháp đạt hiệu quả kinh tế cao vừa giảm tối đa chi phí sản xuất mà chất lượng vẫn đảm bảo, nhờ đó mà người sản xuất tìm ra các phương pháp tối ưu trong quản lý.
Quản lý chất lượng đúng ngay từ đầu (do right the first time) đang được các nhà quản trị doanh nghiệp hết sức quan tâm. Đây là con đường tiết kiệm nhất trong kinh doanh và nó cũng là mục tiêu của quản lý chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp nói riêng và quản lý của các đơn vị tổ chức nói chung.
Cần nói thêm rằng quản lý chất lượng sản phẩm là phải bảo vệ môi trường, đây không chỉ là vấn đề mang tính pháp lý mà còn chứa đựng đạo đức kinh doanh trong tinh thần nghiệp chủ. Quản lý chất lượng phải được xây dựng trên cơ sở phát triển bền vững cân bằng trong mối quan hệ hữu cơ con người- sản xuất-môi trường.
Công tác quản lý chất lượng phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, tập trung chú ý vào người tiêu dùng sản phẩm.Theo Ixikawa: “ Ta phải coi sản phẩm cho thị trường”. Nhà sản xuất trước khi tiến hành sản xuất cái gì, như thế nào phải nghiên cứu nhu cầu sau đó mới có kế hoạch sản xuất, xác định rõ mức chất lượng khách hàng yêu cầu, có như vậy sản phẩm mới tiêu thụ được.
Thứ hai, quản lý chất lượng sản phẩm phải bao trùm lên mọi hoạt động tổ chức, không chỉ ở doanh nghiệp mà ở cả các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Vậy, ta phải tiếp cận quản lý chất lượng trong mọi biểu hiện của nó tức là quản lý các kết quả, các quá trình, công việc của các bộ phận, công việc của công nhân viên ,…
Thứ ba, các quyết định về chất lượng phải đặt trên cơ sở khả năng thanh toán của nhu cầu. Một mức chất lượng cao với giá quá cao thì sản phẩm cũng khó tiêu thụ và ngược lại.
Quản lý chất lượng sản phẩm đòi hỏi sự đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp, sự tham gia của tất cả các thành viên. Do vậy, mỗi cán bộ công nhân viên phải có những đổi mới về tư duy, nhận thức. Ta có thể nhận thấy một số đặc điểm cơ bản sau:
Chất lượng là số một sau đó mới là lợi nhuận.
Thực tế cho thấy, sự thành công của các doanh nghiệp trên thương trường đặc biệt là các doanh nghiệp ở Nhật đều bắt nguồn từ một nguyên nhân quan trọng đó là họ khởi nguồn mọi hành động là chất lượng, phương châm là chất lượng. Điều đó giải thích tại sao sản phẩm của Nhật luôn được người tiêu dùng tín nhiệm,nó mang lại sức cạnh tranh to lớn bên cạnh những sản phẩm được sản xuất ở một số ước Tây Âu, Bắc Mỹ…
Muốn tăng chất lượng sản phẩm thì phải tăng chi phí một mức (C1) và khi đó sản phẩm của doanh nghiệp mới có khả năng cạnh tranh cao. Đến lượt tăng chất lượng sản phẩm tác động trở lại sẽ làm giảm đáng kể các chi phí ẩn của sản xuất hay chi phí không chất lượng (Unquality costs). Chi phí ẩn của sản xuất gồm 3 nhóm lớn.
- Chi phí phòng ngừa
- Chi phí đánh giá, kiểm soát.
- Chi phí cho sai sót lỗi lầm.
Ta có thể nói chi phí ẩn của sản xuất( SCP- Shadow costs of production) thể hiện dưới hai dạng hữu hình và vô hình.
- Loại hữu hình gồm: sản phẩm bị loại bỏ, sửa chữa, khách trả lại; chi phí cho kiểm tra chất lượng sản phẩm, tồn kho, thất thoát, lãng phí nguyên vật liệu, năng lượng, nhân công, những trục trặc, sửa chữa thiết bị do kém bảo dưỡng.
- Loại vô hình gồm: Tai nạn lao động, mâu thuẫn nội bộ, vắng mặt của công nhân do không thích làm việc, hiệu quả, hiệu lực quản lý kém, môi trường công tác xấu sẽ làm giảm năng suất lao động; hệ thống thông tin liên lạc trục trặc, chi phí cho việc theo đuổi các vụ kiện tụng, tranh chấp…
Khi tăng chất lượng thì chi phí ẩn sản xuất giảm:
+ Số khuyết tật giảm, tỷ lệ sản phẩm chấp nhận tăng(C2)
+ Tỷ lệ phế phẩm giảm đi rõ rệt(C3)
+ Chi phí cho sữa chữa, bảo dưỡng giảm(C4).
+ Chi phí cho kiểm tra giảm(C5).
Như ta đã biết SCP có thể không nhỏ hơn 50% doanh số, nhất là ở nước ta do vậy một sự tăng lên chi phí để nâng cao chất lượng sản phẩm chắc chắn sẽ nhỏ hơn lợi ích mà nó mang lại cho ta tức là C1< C2+ C3+ C4+ C5.
Định hướng sản xuất vào người tiêu dùng.
Trong kinh doanh nếu không vì người tiêu dùng thì nắm chắc thất bại. Kinh doanh phải xuất phát từ thị trường sau đó phải quay trở lại thị trường. Do đó phải nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu, hành vi của người tiêu dùng. Khi cung cấp các sản phẩm ra thị trường các doanh nghiệp phải làm bổn phận của mình ngay cả lúc người tiêu dùng sử dụng sản phẩm. Để thực hiện được quan điểm này ta phải thực hiện chu trình Deming. M- P- P- C.
Sơ đồ 7: Chu trình Deming_ MPPC.
Đảm bảo thông tin và áp dụng SQC.
Quản trị chất lượng là công việc, trách nhiệm của tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp. Quản trị chất lượng phải được thực hiện ở cấp lãnh đạo cao nhất của công ty với ý nghĩa chiến lược, đồng thời phải quán triệt quản lý tác nghiệp ở từng phân xưởng, tổ đội sản xuất vì thế có các nguồn thông tin hai chiều. Quản trị nói chung và quản lý chất lượng nói riêng không có thông tin thì không thể thực hiện quản ý và thông tin trong mối quan hệ tương tác đòi hỏi phải chính xác, kịp thời, đầy đủ, có như thế cán bộ lãnh đạo quản lý chất lượng mới có các quyết định đúng đắn.
Quản lý chất lượng bằng thống kê- SQC là mmột phương pháp sử dụng khá phổ biến và mang lại những kết quả to lớn không thể phủ nhận. Đặc trưng thống kê chất lượng sản phẩm là đầu mối cho chúng ta cải tiến. Song ở nước ta rất nhiều doanh nghiệp còn chưa sử dụng hiệu quả các công cụ này. SQC bao gồm: Biểu đồ pareto, biểu đồ quá trình, sơ đồ nhân quả, phiếu kiểm tra, biểu đồ phân bố mật độ, biêu đồ kiểm soát, biểu đồ phân tán…
Khi sử dụng 7 công cụ trên ta sẽ tìm ra nguyên nhân những sai sót và đề ra cách giải quyết. Đặc biệt hiện nay tiến trình cơ giới hóa, tự động hoá diễn ra khá phổ biến. Vì vậy, việc sử dụng các công cụ kiểm tra, kiểm soát là không thể thiếu- con số thường có tính thuyết phục cao hơn lời nói suông.
Con người được coi là yếu tố quyết định trong quản lý chất lượng sản phẩm.
Để phát huy nhân tố con người trong quản lý chúng ta phải thực hiện một số công việc sau:
- Đổi mới tư duy và triết lý quản trị chất lượng.
- Đào tạo bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài.
- Đẩy mạnh ý thức tự quản trị công việc của mình cho mỗi thành viên.
- Phối hợp, kích thích tinh thần hợp tác nhóm.
Quản lý chất lượng phải được các cấp trong doanh nghiệp thấm nhuần các mục đích,vai trò, ý nghĩa của nó đối với hãng và chính bản thân các nhân viên. Các doanh nghiệp phải tổ chức các chương trình đào tạo, có thể đào tạo trong hoặc ngoài công việc cho ban giám đốc hãng, các thành viên của ban quản lý, trưởng phòng, đốc công, công nhân, thiết lập lên nhu cầu các nhóm hoạt động vì chất lượng.
Một điều bất cập trong quản trị doanh nghiệp, quản trị chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp nước ta là tinh thần hợp tác nhóm là chưa cao hoặc chưa thực hiện. Trong khi, để tạo ra chất lượng sản phẩm là một quá trình nhiều mắt xích, để tạo ra một chủng loại sản phẩm lại bao gồm nhiều sản phẩm riêng lẻ hợp thành. Do vậy để giảm sản phẩm sai hỏng, khuyết tật một cách thức rất hiệu quả là các doanh nghiệp phải triển khai thực hiện công việc trên.
Quản trị theo chức năng- Quản tri chéo.
Quản trị theo chức năng được xây dựng bằng quy tắc PPM.
P- Plan: Hoạch định thiết kế.
P- Production: Sản xuất, bán
P- Prevention: Phòng ngừa.
M- Market: Thị trường.
Quản lý theo chức năng gắn chặt theo các ban chức năng là cơ chế đảm bảo cho hoạt động của hãng. Cơ cấu chiều dọc chỉ đảm bảo khả năng hoạt động của tổ chức khi có sự phối hợp của những chức năng khác nhau trong việc đảm bảo chất lượng.
![](/pictures/picfullsizes/2018/05/24/ykn1527153712.jpg)
Quản trị theo chức năng được thực hiện qua các ban chức năng. Trong mỗi ban đều có ban thư ký và chỉ định thư ký để điều hành công việc. Sự phối hợp hoạt động của các ban chức năng phải nhịp nhàng, mềm dẻo. Mỗi ban có thể chia ra những nhóm nghiên cứu những vấn đề khác nhau, định ra quyền hạn và trách nhiệm của các phòng. Chịu trách nhiệm trực tiếp về chất lượng sản phẩm kông phải là ban chức năng mà là các phòng theo cơ cấu dọc. Ban chức năng nghiên cứu cơ cấu dọc và cơ cấu ngang để hoàn thiện hoạt động của toàn bộ tổ chức.
Phương pháp quản lý theo chức năng có một số ưu điểm sau:
Thứ nhất, lãnh đạo hãng không cần tham gia vào giải quyết các vấn đề giữa các phòng.
Thứ hai, là cơ chế bảo đảm cho hoạt động có hiệu quả của hãng.
Thứ ba, phát huy được sáng kiến và sáng tạo của cấp dưới.
Thứ tư, thực hiện tốt việc quản lý đồng bộ chất lượng và hoàn thiện công nghệ.
Thứ năm, góp phần vào việc mối quan hệ giữa công nhân và cán bộ phòng ban.
Tóm lại, sơ đồ quản lý dọc và ngang( quản lý theo chức năng và theo phòng ban) do giáo sư Ixikawa Kaoru nêu ra đã được các doanh nghiệp sử dụng rất hiệu quả . Nó là kiểu kết hợp hài hoà quản lý dọc và quản lý ngang.
Chất lượng sản phẩm phải nằm ở vị trí trung tâm trong các hoạt động ở doanh nghiệp, đặc biệt đội ngũ cán bộ phải có sự cam kết về chất lượng sản phẩm của mình. Mọi nhân vật cấp cao, các cán bộ quản lý và mọi công nhân phải chứng minh rằng họ có thái độ nghiêm chỉnh đối với chất lượng “ Nếu người lãnh đạo chủ chốt của một tổ chức chịu trách nhiệm và có cam kết đối với chính sách về chất lượng, thì bản thân việc đó sẽ tạo ra sự đề cập rộng lớn vượt ra ngoài những thủ tục đã được chấp nhận về những kỷ luật mà chức năng đảm bảo chất lượng đòi hỏi”.( John S.Oakland, quản lý chất lượng đồng bộ, 1994).
Quản lý chất lượng sản phẩm phải chú ý tới con người, ta đã tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm và khẳng định con người là nhân tố cơ bản nhất quyết định đến việc tạo ra chất lượng sản phẩm cao hay thấp. Từ giám đốc cho tới người công nhân đều phải thấy được trách nhiệm của mình về vấn đề chất lượng.
Tuân thủ tính đồng bộ và toàn diện trong quản lý chất lượng. Chất lượng sản phẩm được hình thành ở nhiều phân hệ, điều này yêu cầu công tác quản lý chất lượng sản phẩm thực hiện ở tất cả các phòng ban, trách nhiệm này không của riêng lẻ bộ phận nào. Để phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp, người lãnh đạo cần thiết lập mối quan hệ mật thiết, gắn liền quyền hạn với trách nhiệm thì mới cho kết quả phối hợp tốt. Các phòng ban cùng nhau nhất quán vì mục tiêu chất lượng và tạo điều kiện cho nhau để hoàn thành mục tiêu đó.
Quản lý chất lượng sản phẩm tập trung vào các quá trình, quản lý hệ thống. Nâng cao tính linh hoạt và không ngừng nâng cao chất lượng của toàn bộ hệ thống và các quá trình từ thiết kế đến sản xuất, tiêu thụ và tiêu dùng sản phẩm. Đồng thời xác định những nguyên nhân gây ra trục trặc về chất lượng sản phẩm và có biện pháp tác động nhằm ngăn chặn những nhân tố đó. Trong đó cần sử dụng vòng tròn chất lượng và các công cụ thống kê để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá. Phát triển và tập trung ưu tiên cho những vấn đề quan trọng nhất trong công tác quản lý.
Quản lý chất lượng sản phẩm được hiểu một cách rộng rãi và toàn diện, báo quát mọi chức năng cơ bản của quá trình quản lý. Nó được tiến hành theo trình tự: Nghiên cứu nhu cầu – thiết kế – thi công- chế tạo… đến lưu thông sử dụng sản phẩm. Ta không thể xem nhẹ một khâu nào trên vòng tròn Deming( The Deming Wheel).
Sơ đồ 9: Vòng tròn Deming trong quản lý chất lượng sản phẩm.
![](/pictures/picfullsizes/2018/05/24/ont1527153713.jpg)
Chức quy định (hoạch định) chất lượng sản phẩm.
Chức năng này thể hiện trong các khâu điều tra, nghiên cứu nhu cầu của thị trường cũng như thiết kế, đề xuất mức chất lượng hay quy định những điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật mà sản phẩm phải đạt được theo yêu cầu của Nhà nước, của doanh nghiệp, hợp đồng kinh tế đã ký kết, những chỉ tiêu giá cả, mức độ chất lượng sản phẩm, điều kiện và thời gian giao hàng… cũng cần được hoạch định ở chức năng này.
Chức năng hoạch định mang tính quyết định đến hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm. Hoạt động này cho phép doanh nghiệp có một mục tiêu chất lượng, và phương châm hành động vì chất lượng cũng như sử dụng hợp lý nhất các nguồn lực mà doanh nghiệp có thể khai thác. Từ đó doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất và thị trường.
Chức năng quản lý chất lượng sản phẩm.
Gồm mọi hoạt động các khâu từ sản xuất đến tiêu dùng, hay chi tiết hơn đó là từ khi chuẩn bị nguyên, nhiên vật liệu chế tạo thử sản xuất đại trà và chuyển sang mạng lưới lưu thông phân phối rồi sử dụng sản phẩm.
Thực hiện chức năng này là phòng ban quản lý sản xuất- kinh doanh, kiểm tra, điều chỉnh chất lượng dưới sự lãnh đạo của trưởng phòng và các nhân viên thực hiện.
Chức năng đánh giá chất lượng sản phẩm.
Để chất lượng sản phẩm hoàn hảo đòi hỏi việc đánh giá chất lượng sản phẩm phải thực hiện chi tiết và tổng hợp có nghĩa là đánh giá từ các yếu tố đầu vào, sản xuất cho tới chất lượng sản phẩm được chế tạo ra.
Đánh giá chi tiết, đó là chỉ tiêu của từng loại nguyên, nhiên vật liệu chế tạo ra sản phẩm, chất lượng của thiết kế, chất lượng của quy trình công nghệ sản xuất, chất lượng của bán thành phẩm, chất lượng kỹ thuật gia công, tổ chức quản lý sản xuất và việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, bao gói vận chuyển bảo quản sản phẩm…
Nếu chúng ta có đánh giá đúng và có điều chỉnh kịp thời những yếu tố trên sẽ vô hình chung tạo cho chất lượng tổng hợp của sản phẩm được bảo đảm.
Đánh giá chất lượng sản phẩm toàn phần của sản phẩm hàng hoá thể hiện các đánh giá tổng quát chất lượng sản phẩm dựa vào các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm được Nhà nước quy định, yêu cầu của người tiêu dùng hoặc của tổ chức tiêu chuẩn hoá. Như các chỉ tiêu về độ tin cậy, độ an toàn, tuổi thọ sản phẩm…
Chức năng cải tiến và điều chỉnh.
Trong quá trình quản lý, đánh giá chất lượng sản phẩm không phải luôn diễn ra suôn sẻ mà ngược lại nó có độ bất định do có các yếu tố khách quan hay chủ quan tác động. Vì thề để đạt được các mục tiêu đề ra chúng ta cần thiết phải cải tiến và thực hiện điều chỉnh kịp thời. Làm như vậy sản phẩm làm ra sẽ tương hợp với nhu cầu khách hàng và mang lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Bằng các công cụ thống kê ta hoàn toàn có thể theo dõi và kiểm soát quá trình tìm ra nguyên nhân đột biến dễ dàng nhưng nó cũng đòi hỏi người tham gia quản lý phải có trình độ hiểu biết, nhanh nhạy, có kinh nghiệm mới có thể điều chỉnh kịp thời sự sai lệch phát sinh. Trong hoạt động cải tiến và điều chỉnh chúng ta cần tìm tận gốc nguyên nhân chứ không phải cứ chạy theo sửa chữa kết cục của nó sẽ gây lãng phí lớn.
Ta có thể theo dõi biểu đồ sau để hiểu rõ hơn vấn đề này.
Sơ đồ 10: Tiến trình cải tiến chất lượng sản phẩm tiếp cận TQM và TQC.
![](/pictures/picfullsizes/2018/05/24/hdn1527153713.jpg)