Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong thực tế hiện nay
Chất lượng đào tạo Nhận thức được vai trò quan trọng của con người đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong nhưng năm gần đây công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đó được Đảng và nhà nước ta quan ...
Chất lượng đào tạo
Nhận thức được vai trò quan trọng của con người đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong nhưng năm gần đây công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đó được Đảng và nhà nước ta quan tâm đúng mức. Chất lượng đào tạo nhân lực đó được nâng cao rõ rệt.
Khái niệm chất lượng đào tạo có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Ở đây chúng ta chỉ tiếp cận chất lượng đào tạo từ sản phẩm của đào tạo đó là các kiến thức và kỹ năng mà người học có được sau các khóa đào tạo. Kiến thức và kỹ năng là những tiêu chí tổng hợp phản ánh chất lượng của quá trình đào tạo người lao động. Tuy nhiên có thể đánh giá những tiêu chí này thông qua một số chỉ tiêu như kết quả học tập các môn lý thuyết và thực hành nghề: Về kiến thức chuyên môn tỷ lệ học viên có điểm lý thuyết đạt khá giỏi trở lên chiếm gần 40% và có xu hướng ngày càng tăng lên. Chẳng hạn năm học 1998-1999 số học viên đạt loại giỏi và xuất sắc về lý thuyết nghề chiếm khoảng 12% thì đến năm học 2002-2003 tỷ lệ này là gần 15%. Số học viên đạt điểm yếu kém về lý thuyết chỉ chiếm khoảng 3% và có xu hướng giảm dần qua các năm. Sau các khóa đào tạo người lao động được trang bị đầy đủ các kiến thức chuyên môn nghề nghiệp.
Biểu 1: Kết quả thi lý thuyết nghề
Về kỹ năng thực hành nghề của học sinh cũng được nâng cao rõ rệt. Qua các kỳ thi thực hành tỷ lệ học viên có điểm thực hành đạt loại khá và giỏi trở lên ngày càng tăng. Năm 1998-1999, số học sinh đạt loại khá và giỏi về thực hành chiếm trên 13%, đến năm học 2002-2003 tỷ lệ này đó tăng trên 18%.
Biểu 2: Kết quả thi thực hành nghề
(Theo tạp chí thông tin thị trường lao động)
Chất lượng đào tạo còn thể hiện qua đánh giá của các doanh nghiệp. Theo các doanh nghiệp thì khoảng 1/3 số sinh viên có kiến thức và năng lực khá và tốt trong một số tiêu chí như kiến thức chuyên môn nghề; kỹ năng thực hành nghề; kỹ năng làm việc độc lập; năng lực phân tích và giải quyết vấn đề; năng lực phân tích và giải quyết vấn đề; năng lực thích ứng và tự giải quyết trong công việc; năng lực làm việc theo tổ nhóm; tác phong lao động công nghiệp; năng lực giao tiếp xã hội… Đại đa số doanh nghiệp đánh giá học sinh học nghề đạt mức trung bình trở lên.
Như vậy chất lượng đào tạo nghề về cơ bản đó đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp sản xuất với công nghệ hiện đại. Một số cơ sở đào tạo đó có đủ điều kiện đào tạo được những công nhân kỹ thuật tương đương trình độ khu vực. Với số lượng và chất lượng kiến thức kỹ năng ngày càng được nâng lên, đa số người lao động đó đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động và có thể tiếp cận làm chủ mỏy múc,thiết bị hiện đại.
Hiệu quả đào tạo
Hiệu quả của công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cũng được xem xét trên hai góc độ đó là hiệu quả ngoài và hiệu quả trong. Hiệu quả trong thể hiện ở kết quả và tỷ lệ tốt nghiệp còn hiệu quả ngoài được đánh giá căn cứ vào tỷ lệ người lao động có việc làm sau đào tạo, tỷ lệ làm đúng nghề được đào tạo và tỷ lệ đáp ứng được yêu cầu công việc… Hiện nay ở nước ta tỷ lệ lao động được đào tạo lớn, tỷ lệ tốt nghiệp khá giỏi cao và hầu hết số người tốt nghiệp tìm được việc làm. Đào tạo nghề đó gắn với thực tiễn sản xuất và gắn với giải quyết việc làm.
Biểu 3: Tỷ lệ học sinh có việc có việc làm
(Theo tạp chí thông tin thị trường lao động)
Kết quả tên cho thấy công tác đào tạo nghề đó gắn với giải quyết việc làm. Tỷ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp có việc làm đạt trên 70%. Một số cơ sở đào tạo đặc biệt là các trường nghề trong doanh nghiệp tỷ lệ học viên sau khi tốt nghiệp có việc làm rất cao, có nơi đạt trên 90%. Đào tạo nghề đó gúp phần giúp người lao động nâng cao trình độ tay nghề và kiến thức chuyên môn tăng cơ hội tìm việc làm cho họ. Người lao động sau đào tạo có nhiều cơ hội tìm được những việc làm tốt và có thu nhập cao gúp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nước ta đó đạt được chất lượng và hiệu quả đáng kể là nâng cao tay nghề cho người lao động, cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động có trình độ cao đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chất lượng lao động nước ta đó theo kịp khu vực và thế giới.
Bức xúc trong việc gắn đào tạo với sử dụng
Bên cạnh những kết quả đó đạt được về chất lượng và hiệu quả, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nước ta vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cần khắc phục. Một trong những vấn đề cơ bản đó là thiếu sự gắn kết giữa công tác đào tạo và nhu cầu thực tế về sử dụng nhuồn nhân lực. Trong đó có nhiều vấn đề bức xúc còn tồn tại như: Cơ cấu đào tạo bất hợp lý; thiếu sự gắn kết giữa đào tạo và sử dụng; chất lượng đào tạo không đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng…
Cơ cấu đào tạo bất hợp lý thể hiện trên cả ba mặt: Cơ cấu cấp đào tạo, cơ cấu ngành nghề đào tạo và cơ cấu vùng miền trong đào tạo.
- Cơ cấu cấp đào tạo: Trong cơ cấu nguồn nhân lực nhu cầu phát triển của bất cứ nước nào cũng phải đảm bảo một cơ cấu hình tháp, tức là tỷ trọng công nhân kỹ thuật là lớn nhất, kế đó là tỷ trọng những người có trình độ đại học và cao đẳng. Theo chuẩn quốc tế hiện nay về quy mô đào tạo, cứ 10 học viên công nhân kỹ thuật thì có 4 người học trung học chuyên nghiệp và một người học cao đẳng, đại học. Nhưng thực tế ở nước ta hiện nay nếu chỉ tính đào tạo dài hạn thì cứ 1 học viên công nhân kỹ thuật có 1,1 người học trung học chuyên nghiệp và có tới 4,3 người học cao đẳng, đại học. Như vậy ở nước ta dự đó được cảnh báo từ rất lâu nhưng cơ cấu đào tạo vẫn rất bất hợp lý, đó là cơ cấu hình tháp ngược, có sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu nguồn nhân lực.
- Cơ cấu ngành nghề đào tạo cũng thể hiện sự bất hợp lý, có sự mất cân đối khá lớn về ngành nghề đào tạo. Hiện nay trong cơ cấu đào tạo đại học của Việt Nam số học viên theo học các khối ngành luật, kinh tế rất lớn, ít chú trọng đến các ngành điện tử, kỹ thuật, các lĩnh vực công nghệ mới trong khi nhu cầu kỹ sư của các ngành này cũng rất lớn. Các trường dạy nghề đa số đều có xu hướng tập trung đào tạo các ngành nghề phổ biến như kế toỏn, tin học ứng dụng, ngoại ngữ mà ít chú trọng việc đào tạo công nhân kỹ thuật, công nhân cơ khí, sửa chữa… Điều này dẫn tới có những ngành thừa rất nhiều lao động nhưng có những ngành lại thiếu trầm trọng.
- Cơ cấu vùng miền cũng thể hiện sự bất hợp lý. Sự khác nhau về điều kiện phát triển kinh tế xã hội là nguyên nhân dẫn tới sự bất hợp lý của cơ cấu đào tạo theo vùng miền. Hiện nay các cơ sở giáo dục đại học và dạy nghề chỉ mới tập trung ở một số trung tâm văn hóa kinh tế lớn chưa phát triển ở các tỉnh, địa phương. Điều này gõy nên sự thiếu hụt nghiêm trọng về lao động có tay nghề ở những vùng kinh tế kém phát triển.
Cùng với cơ cấu đào tạo bất hợp lý thì sự tách dời giữa đào tạo và sử dụng cũng là một vấn đề cần quan tâm. Có một thực tế lớn hiện nay là lao động cần việc làm nhưng khó xin việc vì tay nghề chuyên môn yếu. Doanh nghiệp cần lao động nhưng không tuyển dụng được vì có quá ít lao động có nghề. Điều này là do thiếu sự hợp tác giữa các cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng. Trên thế giới ở những nước phát triển, các trường dạy nghề đa số đều nằm trong các doanh nghiệp và mang lại hiệu quả rất cao. Tuy nhiên mô hình cơ sở đào tạo trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay mới chỉ dừng lại ở những con số hạn chế, quy mô nhỏ hẹp, chủ yếu đào tạo công nhân để làm việc cho doanh nghiệp. Ngoài ra, mô hình doanh nghiệp cử người đi đào tạo tại các cơ sở đào tạo hoặc liờn kết với các cơ sở này trong việc đào tạo nguồn nhân lực của chúng ta hiện nay là ít xảy ra, một phần do năng lực đào tạo của các cơ sở còn hạn chế, chưa tạo được lũng tin với các doanh nghiệp. Đây là nguyên nhân dẫn tới tình trạng lao động đó qua đào tạo nhưng thiếu kiến thức thực tế, năng lực hành nghề không cao. Người học chủ yếu chỉ học trên lý thuyết mà ít được tiếp xúc với các công cụ thực hành, không có sự kèm cặp chỉ bảo và truyền đạt kinh nghiệm của các “giáo viên thực hành” là đội ngũ thợ lành nghề.
Cũng do sự thiếu hợp tác giữa các cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng dẫn tới tình trạng lao động làm việc ở các lĩnh vực trỏi với chuyên ngành đào tạo diễn ra phổ biến. Việc này có thể lý giải có nguyên nhân từ việc cơ cấu đào tạo của chúng ta chưa gắn với nhu cầu sử dụng lao động trong các doanh nghiệp. Ngoài ra, có thể thấy các kiến thức đào tạo trong các ngành là khá chung chung nên việc chuyển đổi từ công việc này sang công việc khác cũng là chuyện thường xảy ra.
Sự tách dời giữa đào tạo và sử dụng còn do chương trình, nội dung đào tạo mang tính áp đặt, không gắn với nhu cầu thực tế. Đây là một trong những vấn đề nổi cộm và bức xúc nhất trong giáo dục đại học của chúng ta hiện nay. Với quy định về khung chương trình đào tạo, trong đó quy định số lượng các học phần bắt buộc gồm các môn học về chính trị, tư tưởng chiếm một tỷ trọng khá lớn ở tất cả các ngành đào tạo đại học. Điều này cũng làm giảm khả năng trang bị các kiến thức vần thiết, khiến chất lượng sinh viên ra trường bị giảm sút, thiếu khả năng thực hành, thiếu gắn kết với yêu cầu về sử dụng.
Chất lượng đào tạo không đáp ứng được nhu cầu sử dụng. Ở nước ta hiện nay chất lượng đào tạo nói chung đang ở mức thấp trong khu vực và rất thấp so với mặt bằng chung của thế giới. Là một nước có nền kinh tế được xếp vào hàng các nước đang phát triển, Việt Nam luôn coi nguồn nhân lực rẻ là một lợi thế quan trọng trong việc tăng cường khả năng cạnh tranh và thu hút đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, lợi thế trên sẽ chẳng là gỡ nếu chúng ta không có được nguồn nhân lực có chất lượng, tay nghề cao. Trong các đánh giá xếp hạng của các tổ chức quốc tế về chất lượng đào tạo của các trường đại học hầu như không có tên các trường Đại học của chúng ta. Chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp, các đơn vị tuyển dụng lao động. Đa số người lao động sau khi tốt nghiệp các trường đào tạo, dạy nghề đều không thể thích ứng được ngay với yêu cầu công việc mà phải qua các lớp đào tạo bổ sung. Ngoài ra còn phải kể đến một số lượng đáng kể người lao động sau khi tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp cũng tự đi học thờm các chuyên môn khác cho phù hợp với công việc của họ.
Những khiếm khuyết trong công tác đào tạo nguồn nhân lực
Công tác đào tạo nguồn nhân lực hiện nay cơ bản đó đáp ứng được những yêu cầu về hình thức đào tạo, phương pháp giảng dạy và chương trình đào tạo. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại rất nhiều những khiếm khuyết. Việc xác định nhu cầu đào tạo gặp rất nhiều khi khăn do người học vẫn chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của học nghề. Học nghề vẫn chưa vượt qua định kiến về khoa cử bằng cấp, danh vị xã hội, do đó nhu cầu về công nhân kỹ thuật rất lớn, nhưng số lượng tuyển sinh học nghề lại thấp. Mặt khác, nhu cầu đào tạo hiện nay không xuất phát từ nhu cầu thực tế mà từ nhu cầu lên lương, lên chức dẫn đến người đáng được đi đào tạo thì không được mà bộ phận đi đào tạo về lại không sử dụng. Tình trạng trên dẫn đến hiện tượng thiếu tuyệt đối công nhân kỹ thuật nhưng lại thừa tương đối những người có qua đào tạo nhưng trình độ chuyên môn yếu. Trong quá trình tổ chức các lớp đào tạo các phương pháp khoa học mang tính khách quan để đánh giá nhu cầu đào tạo rất ít được sử dụng. Phần lớn nhu cầu đào tạo đều do kinh nghiệm chủ quan của bộ phận phụ trách đào tạo của tổ chức nờu ra. Việc thu hút và mời các nhà cung cấp các chương trình đào tạo đánh giá nhu cấu đào tạo thực sự rất ít khi được thực hiện. Nhiều khi đào tạo không phải là giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề của tổ chức, nhưng những lớp học vẫn được tổ chức thực hiện.
Hình thức đào tạo phổ biến và hiệu quả trên thế giới hiện nay được rất nhiều các nước phát triển áp dụng là mô hình trường nghề thuộc doanh nghiệp. Ở nước ta hình thức đào tạo này vẫn chưa được chú trọng đúng mức, thời gian gần đây mới bước đầu được xem xét và thử nghiệm ở một số doanh nghiệp. Việc lựa chọn hình thức đào tạo không phù hợp đó dẫn tới tốn kém về chi phí, chất lượng đào tạo không cao.
Phương pháp giảng dạy đóng vai trò vụ cùng quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả đào tạo. Nó không chỉ bao gồm phương pháp truyền đạt mà còn bao gồm cả quá trình phát triển tư duy, cách phát hiện và giải quyết vấn đề. Tuy nhiên hiện nay việc lựa chọn phương pháp đào tạo, cách thức giảng dạy vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Có một thực tế là phương pháp giảng dạy truyền thống với những đặc trưng: quy mô lớp lớn, chủ yếu là thông tin một chiều giữa giảng viên và học viên… Điều này đó hạn chế tính tính cực và sáng tạo của học viên. Phương pháp đào tạo hiện đại với đặc trưng là sử dụng các bài giảng ngắn kết hợp với các bài tập tình huống, thảo luận nhóm, bài tập mô phỏng, bài tập đóng vai nhằm khuyến khích tính chủ động sáng tạo của học viên ít được sử dụng hoặc nếu sử dụng thì tính thuần thục và hiệu quả chưa cao.
Một vấn đề nữa hiện nay là việc thực hiện các chương trình đào tạo và đánh giá chương trình đào tạo. Số lượng các doanh nghiệp, tổ chức mạnh dạn đầu tư vào các chương trình đào tạo có chi phí lớn, chất lượng cao là rất ít. Trên thực tế có một nghịch lý là doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu nhưng vẫn không sử dụng hết kinh phí đào tạo. Bên cạnh việc đầu tư cho đào tạo còn hạn chế thì việc đánh giá các chương trình đào tạo cũng thể hiện sự bất cập. Đánh giá các chương trình đào tạo sử dụng các chỉ tiêu như: Số lượng người được đào tạo, số lượng ngày, giờ đào tạo, số lượng chương trình đào tạo được thực hiện. Về thực chất, các chỉ tiêu này mới chỉ dừng ở mức độ thống kê khối lượng công việc được thực hiờn mà chưa phản ánh được hiệu quả thực hiện công việc cũng như tác động của đào tạo đối với cỏ nhân và tổ chức. Việc đánh giá dựa vào mức độ phản ứng của học viên đối với các khóa học đôi khi được thực hiện. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ thích hợp của các chương trình này về nội dung, phương pháp, hình tức tổ chức, cũng như tác động của các chương trình đào tạo đối với việc nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ quản lý hầu như chưa bao giờ được thực hiện.