24/05/2018, 19:23

Văn Cao

(15 tháng 11, 1923 – 10 tháng 7, 1995) là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng. Ông là tác giả của Tiến quân ca, quốc ca của Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc. còn là một họa sĩ, nhà thơ với nhiều tác phẩm giá ...

(15 tháng 11, 1923 – 10 tháng 7, 1995) là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng. Ông là tác giả của Tiến quân ca, quốc ca của Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc. còn là một họa sĩ, nhà thơ với nhiều tác phẩm giá trị.

Thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong, tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc lãng mạn Bến xuân, Suối mơ, Thiên Thai, Trương Chi... ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Sau khi gia nhập Việt Minh, viết Tiến quân ca, Trường ca Sông Lô, Tiến về Hà Nội... trở thành nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến. Sau vụ việc Nhân Văn - Giai Phẩm, phải đi học tập chính trị. Trừ Tiến quân ca, ca khúc của ông cũng giống như các nhạc phẩm tiền chiến khác, không được lưu hành ở miền Bắc. [cần dẫn nguồn] Đến cuối thập niên 1980, những nhạc phẩm này mới được biểu diễn trở lại. Năm 1996, một năm sau khi mất, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao giải đầu tiên. Ông cũng đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng ba, Huân chương Độc lập hạng nhất.

Tên ông cũng được đặt cho nhiều con phố đẹp ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng và Nam Định.

Thiếu thời

tên thật là Nguyễn , sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray, Hải Phòng, nhưng quê gốc ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha của vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Phòng[3]. Thuở nhỏ, hoc ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung. Ông làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng thì bỏ việc.

Cuối những năm 1930, tân nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Phòng khi đó tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong như Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý... tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận... và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là Buồn tàn thu vào năm 16 tuổi[3]. Cùng nhóm Đồng Vọng, còn sáng tác một số ca khúc hướng đạo vui tươi khác như Gió núi, Gò Đống Đa, Anh em khá cầm tay. Cũng trong thời gian ở Hải Phòng, làm quen với Phạm Duy, khi đó là ca sĩ trong gánh hát Đức Huy. Phạm Duy chính là người đã hát Buồn tàn thu, giúp ca khúc trở nên phổ biến. Năm 1940, có một chuyến đi vào miền Nam. Ở Huế, đã viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, được coi là bài thơ đầu tay.

Năm 1942, nghe theo lời khuyên của Phạm Duy, rời Hải Phòng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant - nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền - và theo học dự thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. còn làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy[5]. Năm 1943 và 1944, hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: Cô gái dạy thì, Sám hối, Nửa đêm. Đặc biệt tác phẩm Cuộc khiêu vũ những người tự tử (Le Bal aux suicidés) được đánh giá cao và gây chấn động dư luận[4]. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của không bán được. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè, thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên các đường phố Hà Nội, Hải Phòng.

Tham gia Việt Minh

Cuối năm 1944, gặp lại Vũ Quý, một Việt Minh mà ông đã quen biết trước đó. Vũ Quý thuyết phục ông tham gia Việt Minh, với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc. đã sáng tác ca khúc đó trong nhiều ngày tại căn gác số 171 phố Mongrant và đặt tên cho tác phẩm là Tiến quân ca. Tiến quân ca được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập tháng 11 năm 1944. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt Tiến quân ca làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

tiếp tục tham gia hoạt động trong đội Trừ gian của Việt Minh. Ông viết và phụ trách ấn loát cơ quan Phan Chu Trinh, in sách báo, truyền đơn. Vào cuối mùa xuân năm 1945, đã có mặt trực tiếp tham dự vụ ám sát nổi tiếng, đó là vụ giết ông Đỗ Đức Phin tại Hải Phòng, người bị Việt Minh kết án là Việt gian theo Nhật. Sau vụ ám sát, tạm lánh một thời gian để tránh mật thám Pháp và Nhật theo dõi. Trở về Hà Nội, còn tiếp tục tham gia vụ ám sát Cung Đình Vận ở gần rạp hát cuối phố Huế nhưng không thành công do ông bắn trượt[3].

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, làm phóng viên và trình bày cho báo Lao Động.

Năm 1946, được cử cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính thức được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Ủy viên Chấp hành, hoạt động ở liên khu III, phụ trách tổ điều tra của công an Liên khu và viết báo Độc Lập. Đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc biệt của công an Liên khu 10 ở biên giới phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm vụ kết nghĩa với vua Mèo để lập ra một phòng tuyến bảo mật chống sự tràn sang của quân Trung Hoa Quốc dân Đảng khi thua trận[3]. Ở Lào Cai, còn mở một quán bar để làm địa điểm theo dõi[7]. Tháng 3 năm 1948, được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1949, thôi làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam. Thời kỳ này, ông tiếp túc sáng tác các ca khúc nổi tiếng khác như Làng tôi (1947), Ngày mùa (1948), Tiến về Hà Nội (1949)... và đặc biệt là Trường ca Sông Lô năm 1947.

Năm 1952, sang Liên Xô nghiên cứu âm nhạc. Theo Hoàng Minh Chí thì chuyến đi này làm "thất vọng về chủ nghĩa cộng sản". Trần Gia Phụng thì miêu tả một cậu bé thổi sáo bằng hai mồm[8]. Một cái được vẽ từ cách nhìn thẳng, một cái được vẽ bằng cách nhìn nghiêng. Làm nền, phía sau cậu bé là đông nghịt những con người trong một tiết tấu đầy chuyển động của nhịp chiến tranh. Bức tranh này cùng với bức Cây đàn đỏ vẽ một người bộ đội ôm "Cây đàn chủ nghĩa" mà gửi tham gia Triển lãm Hội họa ở Liên khu III, ông bị quy kết: hình thức lai căng, nội dung thì có vấn đề về tư tưởng[3].

Nhân Văn - Giai Phẩm

Sau hiệp định Genève 1954, hồi cư về Hà Nội, làm việc cho Đài Phát thanh, nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955, ông cầm bút trở lại, viết bài cho đặc san Giai Phẩm. Tháng 2 năm 1956, bài thơ Anh có nghe không được đăng trên Giai phẩm mùa Xuân. Bài thơ này bị Xuân Diệu đánh giá là "lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì"[9]. cùng các nghệ sĩ của hai tờ báo Nhân Văn và Giai Phẩm khi đó chủ trương đòi hỏi tự do văn nghệ, sáng tác. Đến tháng 12 năm 1956 thì cả hai tờ báo đều bị đình bản.

Như những nghệ sĩ khác của nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm, tuy có muộn hơn, đến tháng 7 năm 1958, phải đi học tập chính trị[10]. Tên tuổi của hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội. Những năm sau đó, tiếp tục bằng nhiều công việc, như viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn kịch, vẽ quảng cáo các báo, vẽ nhãn diêm... Các tác phẩm của ông, cũng như các ca khúc lãng mạn tiền chiến khác, không được trình diễn ở miền Bắc, trừ bài quốc ca. Giai đoạn này, hầu như không còn sáng tác. Đến cuối năm 1975, ông viết Mùa xuân đầu tiên, nhưng ca khúc bị phê bình là không đi đúng đường lối của Đảng, không phục vụ cho Cách Mạng, vì thế bản nhạc mới phát hành đã bị tịch thu. Nhưng các chương trình Việt Ngữ tại Moskva vẫn cho trình bày bài hát, và nhờ vậy Mùa xuân đầu tiên đã không bị lãng quên.

Năm 1981, Việt Nam phát động phong trào cả nước thi sáng tác quốc ca nhưng sau đó không công bố kết quả, cuộc thi cũng không được nhắc lại. Bài Tiến quân ca vẫn là quốc ca của Việt Nam. Cho đến cuối thập niên 1980, nhờ chính sách Đổi mới của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, các tác phẩm của cùng những nhạc sĩ tiền chiến khác được biểu diễn trở lại.

Ngày 10 tháng 7 năm 1995, sau một thời gian mắc bệnh ung thư phổi, mất tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.

So với hai nhạc sỹ Việt Nam nổi tiếng khác là Phạm Duy khoảng 1000 các khúc và Trịnh Công Sơn với 600 ca khúc, sáng tác không nhiều. Sự nghiệp âm nhạc của được chia làm hai mảng chính: tình ca và hùng ca. Ngoài ca khúc, ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa... tổ khúc giao hưởng Anh bộ đội cụ Hồ...

Tình ca

Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên, giống như những nhạc sỹ tiền chiến khác, viết các nhạc phẩm trữ tình, nhưng ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng phương Đông[12]. Từ ca khúc đầu tay Buồn tàn thu, đã sử dụng ngũ cung để viết về một hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á: người phụ nữ đan áo ngồi chờ đợi. Sau Buồn tàn thu, ông còn viết hai ca khúc khác về mùa thu là Thu cô liêu và Suối mơ. Trong đó Suối mơ vốn là một đoạn của bản Trương Chi 1 được phát triển thêm. Bản Trương Chi nổi tiếng sau là Trương Chi 2.

Bên cạnh đề tài mùa thu, cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là Cung đàn xưa và Bến xuân. Nhạc phẩm Bến xuân có sự tham gia của Phạm Duy, nhưng về sau viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tên Đàn chim Việt. Ngay từ những ca khúc đầu tiên, đã dành được thành công. Buồn tàn thu được biểu diễn trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945, lúc tân nhạc còn mới phôi thai nên trở nên phổ biến. Suối mơ, Bến xuân được Phạm Duy đánh giá là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam

Nhưng hai tình khúc của được đánh giá cao hơn cả là Thiên Thai và Trương Chi.Bản Thiên Thai được nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế in năm 1944, tự nhận mình là "Người sông Ngự", ghi: "Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người sông Ngự đã lạc mất cảm xúc rồi!". Lời bài hát được đề là của , Hoàng Thoái và Phạm Duy cho rằng Hoàng Thoái là bí danh của Đỗ Hữu Ích, một người bạn của [14]. Sử dụng ngũ cung để viết về một câu chuyện cổ, Thiên Thai có tới 94 khuông nhạc, vừa mang tính trường ca, vừa mang tính nhạc cảnh. Năm 2001, khi phim Người Mỹ trầm lặng được thực hiện, Thiên Thai được sử dụng làm nhạc nền của bộ phim. Giống như Thiên Thai, Trương Chi cũng dựa trên tích chuyện cổ nhưng không phải là một truyện ca mà manh tính tự sự. Ca khúc này còn một đoạn lời nữa mà các ca sỹ thưởng không trình diễn: Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ, Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ.... Hình ảnh Trương Chi trong bài hát cũng thường được so sách với hình ảnh của chính .

Hùng ca

Ngay từ khi còn trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, đã viết các ca khúc hướng đạo khoẻ khoắn. Cũng giống như các nhạc sĩ tiến chiến khác, sử dụng đề tài lịch sử để thể hiện tình ái quốc trong Gò Đống Đa, Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang... Ngoài Tiến quân ca, ông còn sáng tác các hành khúc khác như Tiến về Hà Nội, Thăng Long hành khúc ca. Tham gia Việt Minh, sáng tác các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam...

Năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, viết Trường ca Sông Lô, ca khúc ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc. Phạm Duy viết: "Đó là tác phẩm vĩ đại... chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương... Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc"[12]. Cũng theo ý kiến của Phạm Duy, Trường ca sông Lô phải là đỉnh cao nhất của nhạc kháng chiến nói riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung và là "cha đẻ" của hùng ca, trường ca Việt Nam[15].

Sau năm 1954, các ca khúc của , trừ Tiến quân ca, không được trình diễn ở miền Bắc. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của Sài gòn như Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thành vẫn trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của . Ca khúc Không quân Việt Nam được sử dụng làm bài hát chính thức của Không lực Việt Nam Cộng hòa.

Ghi công

Một năm sau ngày mất, thành phố Hải Phòng đã đặt tên ông cho một con phố rất đẹp ở quận Ngô Quyền. Huế có một con đường mang tên ở Phường Xuân Phú, Đà Nẵng có phố ở quận Thanh Khê. Thành phố Hồ Chí Minh và Nam Định cũng đều có đường mang tên ông.

Năm 2005, mười năm sau ngày mất, Hà Nội lấy tên đặt cho một tuyến phố thuộc hàng đẹp nhất của thành phố nối từ Liễu Giai đến đường Hoàng Hoa Thám. Ông Nguyễn Quốc Triệu, chủ tịch thành phố thời gian đó, đích thân tới nhà gia đình vào hôm trước ngày giỗ của nhạc sĩ để báo tin. Dự kiến con đường tương lai sẽ xuyên qua đường Hoàng Hoa Thám, kéo dài ra tận sát Hồ Tây, về quy mô và quy hoạch sẽ đẹp như đường Nguyễn Chí Thanh và đường Liễu Giai

xây dựng gia đình cùng bà Nghiêm Thúy Băng năm 1947, có với nhau 5 người con, 3 trai đầu và 2 gái cuối.

“ Trong âm nhạc, sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư.... ”

—Trịnh Công Sơn

“ là một viên ngọc trên bức khảm văn hoá - nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. ”

—Đặng Thai Mai

“ Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng tài hoa hơn tôi nhiều. ”

—Phạm Duy

“ là một trong những nhạc sĩ lớn nhất về ca khúc trữ tình và ca khúc chiến đấu ở nước ta. cũng là một trong những ngôi sao thế kỷ 20 trên lĩnh vực ca khúc thế giới... Lời ca của vừa cao siêu, vừa trong sáng, vừa thơ mộng, vừa gần gũi với cuộc sống của nhân dân... Lời ca của lấp lánh ánh sáng tư duy cao sâu của một nghệ sĩ bậc thày về sử dụng tiếng Việt hiện đại. ”

—Tố Hữu

“ Sự giả dối đã thành bản chất của , nên những cái lạc hậu, thoái hoá của cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ... ”

—Xuân Diệu

Nhạc

* Anh em khá cầm tay

* Buồn tàn thu (1939)

* Thiên Thai (1941)

* Đêm sơn cước

* Đêm xuân

* Gió núi

* Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang (1941)

* Bến xuân (nhạc , lời viết chung với Phạm Duy),

sau này viết lời mới

và đổi thành Đàn chim Việt (1942)

* Suối mơ

* Thu cô liêu (1942)

* Cung đàn xưa (1942)

* Gò Đống Đa (1942)

* Trương Chi (1943)

* Tiến quân ca (1944)

* Hải quân Việt Nam (1945)

* Không quân Việt Nam (1945)

* Bắc Sơn (1945)

* Chiến sĩ Việt Nam (1945)

* Làng tôi (1947)

* Ngày mai

* Thăng Long hành khúc ca

* Tiến về Hà Nội

* Tình ca Trung du

* Trường ca sông Lô (1947)

* Ngày mùa (1948)

* Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1950)

* Mùa xuân đầu tiên (1976)

Thơ

* Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc

(1945, khi chứng kiến nạn đói năm 1945)

* Anh có nghe không

(Giai phẩm Mùa xuân - tháng 2, 1956)

* Một đêm Hà Nội

* Những ngày báo hiệu mùa xuân

* Khuôn mặt em (1974)

* Ai về Kinh bắc

* Một đêm đàn lạnh trên sông Huế

* Ba biến khúc tuổi 65 (tháng 9-1988)

* Lá (xuất bản năm 1988)

* Thời gian

* Trôi

* Năm buổi sáng không có trong sự thật

* Phố Phái

* Có lúc

* Đường rừng

Hội họa điêu khắc

* Rất nhiều họa phẩm giá trị, nghệ thuật độc đáo.

0