Vai trò thị trường chứng khoán trong nền kinh tế thị trường
Như ta đã thấy trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung không có khái niệm về giao lưu vốn và cũng không có nhu cầu về tiền và vốn để đầu tư cho sản xuất. Nền kinh tế hoạt động như một cỗ máy chứng nhắc dưới sự chỉ đạo tập trung của Nhà nước. ...
Như ta đã thấy trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung không có khái niệm về giao lưu vốn và cũng không có nhu cầu về tiền và vốn để đầu tư cho sản xuất. Nền kinh tế hoạt động như một cỗ máy chứng nhắc dưới sự chỉ đạo tập trung của Nhà nước. Cơ chế phân phối bình quân theo giá cả bao cấp đã làm tê liệt chức năng của đồng tiền phá vỡ quan hệ cung cầu và qui luật giá trị. Nền kinh tế phát triển què quặt.
Khi chuyển sang chơ chế thị trường doanh nghiệp chủ động trong sản xuất kinh doanh các vấn đề đều do thị trường quyết định. Tạo môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Nhu cầu giao lưu về vốn đã xuất hiện, phản ánh qui luật cung cầu và qui lụât giá trị. Nhu cầu này bắt nguồn từ hai phía: người cần vốn và người có vốn.
Người ta ví thị trường chứng khoán, như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng bộ phận dân cư, như một nam châm cực mạnh thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ, tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế quốc dân. Đồng thời nó tạo ra cho các doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận nhiều hơn, kích thích doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả bằng cách vừa sản xuất vừa mua bán chứng khoán. TTCK giúp Nhà nước giải quyết các vấn đề cơ bản như ngân sách, hạ tầng cơ sở, trực tiếp cải thiện đời sống của người tiêu dùng.
Khả năng linh động tức thì của chứng phiếu là một yếu tố rất cần đối với nhà đầu tư khi đầu tư vốn.
Thị trường chứng khoán giúp doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và tối ưu. Khi một doanh nghiệp cần vốn để mở rộng qui mô doanh nghiệp có thể phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn. Phương thức này còn gọi là “vay vốn qua phát hành”. Doanh nghiệp vay vốn của người có tiền tích luỹ. Những người này mong muốn đầu tư tiền nhàn rỗi vào giá trị động sản. Doanh nghiệp phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu để người dân ghi mua, phát hành cổ phiếu doanh nghiệp tăng vốn tự có bằng cách góp vốn, cổ phiếu. Khi phát trái phiếu doanh nghiệp đã tăng nguồn vốn vay dân.
Ngược lại khi doanh nghiệp chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể dự trữ chứng khoán như một tài sản kinh doanh.
Mặt khác TTCK còn giúp doanh nghiệp xâm nhập lẫn nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu việc sát nhập mở rộng hợp đồng kinh doanh của doanh nghiệp đều được thực hiện thông qua TTCK.
Mặc dù các chứng khoán được mua bán trên thị trường như mua bán tài sản doanh nghiệp, nhưng vốn khả dụng của nền kinh tế luôn được phát triển và duy trì. Thậm chí khi một doanh nghiệp bị phá sản nó cũng không mất đi nó sẽ bám vào tay một cổ đông khác và cổ đông này sẽ duy trì và phát triển các HDDN.
Thị trường chứng khoán biến động rất phức tạp và nhanh chóng. Để lựa chọn phương án đầu tư thích hợp người ta phải có phương pháp xác định cho từng tình hình cụ thể với tham vọng theo dõi sự biến động chung của giá cả của chứng khoán người ta đã cố gắng tìm các biện pháp xác định khác nhau. Đó là lí do ra đời chỉ số thị trường (market index) các chỉ số cung cấp thông tin về thị trường nói chung.
Sự hình thành thị trường chứng khoán của một doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán đã bao hàm sự đánh giá thực trạng của doanh nghiệp đó. Trong hiện tại và dự đoán trong tương lai. Thị trường cổ phiếu cao hay thấp biểu hiện mức độ đầu tư tài chính. Trạng thái kinh tế của doanh nghiệp đặc biệt là mức độ cổ tức mà các cổ đông được hưởng và giá thặng dư của cổ phiếu thể hiện ở khả năng mang lại lợi tức và thu nhập cho doanh nghiệp cho cổ đông của mình. Thuờng những doanh nghiệp làm ăn tốt, thì có khả năng trả lợi tức cổ phần cao và chỉ có doanh nghiệp có quản lý tốt mới ăn lên làm ra. Tuy nhiên có những cổ phiếu cổ tức khiêm tốn vẫn có giá trị thị trường cao. Vì đó là doanh nghiệp có nhiều triển vọng trong tương lai.
Nhìn chung thị trường chứng khoán còn vốn vào các chức năng khác như chức năng TTCK khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. TTCK là công cụ làm giảm áp lực lạm phát, TTCK đảm bảo tính thanh khoản cho số tiền tiết kiệm đầu tư dài hạn TTCK tạo thói quen đầu tư... nhưng ba chức năng trên là ba chức năng quan trọng đặc biệt, dù để ý ở tầm vi mô hay vĩ mô.