25/05/2018, 00:05

Vai trò của vốn trong nước với phát triển kinh tế và ý nghĩa của vấn đề huy động vốn trong nước

Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá có tính kế hoạch nhiều thành phần , định hướng XHCX nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội, khai thác và sử dụng có tiềm năng vốn của đất nước đã đặt nền kinh tế nước ta đến một loạt các ...

  • Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá có tính kế hoạch nhiều thành phần , định hướng XHCX nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội, khai thác và sử dụng có tiềm năng vốn của đất nước đã đặt nền kinh tế nước ta đến một loạt các mâu thuẫn lớn cần giải quyết cấp bách. Trong đó có mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư và nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu ấy. Việc đánh giá đúng nguồn vốn và việc sử dụng nó trong thời gan vừa qua nó cho chúng ta những cơ sở để tạo ra chiến lược tạo vốn nhằm khai thác mọi tiềm năng về vốn và định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn có hiệu
  • Đối với việc huy động vồn trong nước thì đây chính là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng, quyết định. Trong khi đất nước nghèo nàn, khả năng tích luỹ còn thấp thì tiết kiệm những phần chi tiêu không mang lạI hiệu quả thì nó không những là quốc sách mà chúng ta cần có các giảI pháp để hoàn thiện dần; Nhà nước , các doanh nghiệp, hộ gia dình, các tổ chứ tài chính…Phải gắn tiết kiệm với tích luỹ trong sự tác động của các các nhân tố kích thích về lợi ích kinh tế đã huy động tối đa các nguồn vốn trong nước.
  • Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn vốn trong các khu vực: Như ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín dụng tư nhân.
  • Vốn đầu tư từ khu vực nhà giữ vai trò quan trọng trong việc đầu tư vào khu vực doanh nghiệp nhà nước để phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội, các công trình công cộng, hỗ trợ các vùng chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa, hải đảo...

Vốn đầu tư của tư nhân có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn,mở mang các ngành nghề ở nông hôn phát triển, tiểu thủ công nghiệp, vận tải, dịch vụ và thương nghiệp.

Nguồn vốn trong nước tiếp tục tăng cả về tốc độ tuyệt đối và tốc độ tương đối trong GDP từ 10,1% năm 1991 lên tới 19% năm 1995, sau đó ổn định ở mức 16-17% GDP và là động lực chủ yếu gia tăng tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội mà kết quả cuả nó là sự phát triển của nền kinh tế. Tổng sản phẩm trong nước thời kỳ 1991- 1995 tăng lên với tốc độ 8,5% trong đó nông nghiệp và thuỷ sản tăng 4,4% , công nghiệp và dịch vụ tăng 13,2%, dịch vụ tăng 8,6%. Trong tương lai cần tiến hành làm thông thoáng thị trường vốn, tích cực hình thành thị trường chứng khoán để đầu tư. Nguồn vốn trong dân cư còn rất bé, vốn nhàn rỗi trong dân cư không huy động được, theo kết quả đIều tra mức sống gần đây của uỷ ban nhà nước và tổng cục thống kê cho thấy số tiền của người dân được tích luỹ dưới nhiều hình thức.

Vì vậy việc bán tín phiếu với lãi xuất thích hợp đang thu hút nhanh nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Và gần đây chính phủ cho phép thành lập quỹ tín dụng nhân nhân, cũng như ngân hàng dành cho người nghèo để hỗ trợ cho các doanh nghiệp còn nhiều khó khăn.

Trong năm năm 1991- 1995 vốn đầu tư xã hội khoảng 18 tỷ USD, trong đó đó đầu tư nhà nước chiếm khoảng 43%. Đầu tư của khu vực tư nhân chiếm khoang 1/3 tổng số vốn đầu tư.Tổng mức tiết kiệm mà các tổ chức huy động dược tăng từ 5300 tỷ đồng năm 1990 lên trên 24000 tỷ đồng, chiếm 35,5% tổng đầu tư xã hội . Sang kế hoạch 1996- 2000 lượng vốn dự báo cần cho đầu tư phát triển khoảng 41- 43 tỷ USD trong đó thì 50% từ nguồn vốn trong nước. Phần vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước dự kiến chỉ chiếm 12,6%, do đó phải đẩy mạnh việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp khác tự bỏ vốn ra hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước yêu cầu mới, vấn đề huy động và sử dụng vốn vẫn đang gặp nhiều khó khăn phức tạp cần phải khắc phục. Ngân sách nhà nước luôn ở trong tình trạng căng thẳng, không thể đáp ứng đủ cho nhu cầu đầu tư phát triển. Đầu tư của nhà nước bị phân tán do phải đáp ứng nhiều nhiệm vụ, các nguồn thu từ thuế, các khoản lệ phí, dịch vụ công cộng còn nhiều thất thoát và lãng phí. Số vốn huy động được thông qua tín dụng chủ yếu là vốn vay ngắn hạn không đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển và chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Vốn đầu tư trực tiếp từ khu vực tư nhân hãy còn chiếm tỷ lệ nhỏ tập trung chủ yếu (80%) vào các lĩnh vực thương mại dịch vụ, phục vụ tiêu dùng. Một bộ phận không nhỏ nguồn vốn huy động ở trong nước còn đang nằm ở ngân hàng thương mại đang bị ứ đọng không trở thành nguồn vốn đầu tư được.

Theo các ý kiến dự báo thì khoảng 50- 70 nghìn tỷ đồng của nhân dân đang cất giữ dưới dạng tiền mặt, ngoạI tệ, tàI sản có giá trị cao…Chưa chuyển được thành nguồn vốn đầu tư và kinh doanh. Khoản tiền kiều hối hàng năm gửi về nước khoảng từ 0,6- 1 tỷ USD chưa được khai thác và sử dụng hợp lý.

Nguyên nhân của các yếu kém trên là do:

  • Trình độ phát triển kinh tế của nước ta vẫn còn thấp, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế và các quan hệ tài chính tiền tệ mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển, mức độ phân tán ở trong nước vừa nhỏ vừa phân tán.
  • Cơ cấu sản xuất nói chung kém hiệu quả, sau hơn 10 năm đổi mới cầu về những sản phẩm truyền thống gần như đã bão hoà cần phải thay bằng những sản phẩm mới có chất lượng và hình thức cao hơn.
  • Chính sách quản lý vĩ mô chưa hoàn thiện và đồng bộ, chưa khuyến khích mọi người bỏ vốn ra mở rộng sản xuất, môi trường đầu tư chưa ổn định còn nhiều rủi ro cho các nhà đâù tư.
  • Khả năng kinh doanh sinh lợi cao hơn lãi trả ngân hàng của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế. Điều đó cũng kéo theo các ngân hàng cũng gặp rủi ro khi cho vay, khó thu hồi vốn, phải sử dụng thế chấp như một công cụ chủ yếu. Đây chính là yếu tố hạn chế phân bổ có hiệu quả nguồn vốn
  • Để huy động nguồn vốn một cách có hiệu quả thì chúng ta nên áp dụng một số biện pháp sau:
  • Đẩy mạnh thu hút vốn trực tiếp từ dân cư và doanh nghiệp, thúc đẩy đa dạng hoá các hình thức đầu tư.
  • Ủng hộ chủ trương của nhà nước đang dự thảo về cơ chế” Đổi quyền sử dụng đất lấy công trình”. Biện pháp có thể là nhà nước giao quyền sử dụng đất (có thời hạn) cho chủ đầu tư để lấy công trình do chủ đầu tư xây dựng theo yêu cầu của nhà nước.
  • Củng cố các ngân hàng thương mại và tín dụng theo hướng bảo đảm mục tiêu an toàn vốn cho gửi tiết kiệm. Mở thêm các điểm gửi thuận lợi cho người gửi và rút tiền linh hoạt khi xử lý các mức thời hạn
  • Quán triệt chủ trương của Đảng nguồn vốn trong nước là quyết định cuối cùng với việc tích cực tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài, nhân dân ta góp tiền của và sẽ tiếp tục bỏ tiền của để xây dựng đất nước nhanh chóng thiết lập các cơ chế chính sách thích hợp đồng bộ hoá các thủ tục hành chính và các giải pháp vi mô để lập môi trường đầu tư lành mạnh, an toàn, hiệu quả.

Trong 5 năm (1991- 1995) vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội là 193,537 tỷ đồng ( tính theo giá hiện hành) tương đương 18,6 tỷ USD. Trong đó vốn đầu tư trong nước là 137,305 tỷ đồng chiếm 29%. Vốn đầu tư trong nước thuộc khu vực nhà nước là: 70.011 tỷ đồng ( bao gồm vốn ngân sách, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước đầu tư ), chiếm 31,6%, bình quân hàng năm tăng 16%. Khu vực ngoàI nhà nước đã đầu tư 67,294 tỷ đồng chiếm 37,7% so với vốn đầu tư trong nước.

Trong 3 năm (1996- 1998) tổng mức vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện là253,614 tỷ đồng tương đương khoảng 20- 21 tỷ USD. So với mục tiêu toàn xã hội của kế hoạch 5 năm 1996- 2000 là 41- 42 tỷ USD thì 3 năm1996- 1998 đã thực hiện được khoảng 40- 50%.

Nguồn vốn đầu tư huy động toàn xã hội ngày càng tăng so với GDP. Naawm 1989 chỉ đạt 8-9% GDP, thì đến năm 1991 đạt 15,22%, năm 1993 đạt 21%, năm 1995 đạt 26,3%, năm 1996 đạt 26,9% , nawm 1997 đạt 27,5% và năm 1998 đạt28,2%.

Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội ngày càng đa dạng hoá, hình thức huy động được huy động qua nhiều kênh như vốn ngân sách nhà nước, phát hành tráI phiếu công trình. Hiện nay hình thức cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước để tái đầu tư hoặc đầu tư xây dựng mới đang được mở rộng. Hình thức doanh nghiệp tự vay vốn của nước ngoào để đầu tư có sự bảo lãnh của nhà nước cũng đã được mở rộng và hoàn thiện dần. Những năm gần đay đã triển khai nhiều dự án đầu tư theo hình thức BOT ( xây dựng- chuyển giao- kinh doanh), BTO ( xây dựng – kinh doanh- chuyển giao). Đối tượng sử dụng vốn đầu tư đã có sự thay đổi căn bản, theo hướng xoá bỏ dần bao cấp.

Vốn đầu tư từ nguồn ngoài quốc doanh cos tốc độ tăng trưởng rõ rệt và ngày càng chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn này chủi yếu tập trung trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, nhà đất, khách sạn nhà hàng...

VỐN ĐẦU TƯ THỰC HIỆN TOÀN XÃ HỘI 1996- 1998

Nguồn vốn huy động
1996 1997 1998 1996- 1998
Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng %
Tổng vốn đầu tư.Vốn nhà nướcVốn ngoài QDVốn dân cưVốn FDIHệ số icor 778,1430614217731560026400- 10039,428,020,133,93,04 9080038000220001474330800- 10041,924,216,233,93,49 8500039000200001350026000- 10045,923,515,930,63,6 253614107614637334384383200- 10042,4325,1917,2832,80-

Để đảm bảo đầu tư đúng định hướng, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế của vùng, lãnh thổ, nâng cao sử dụng vốn tín dụng đầu tư ưu đãi, cần đổi mới cơ chế quản lý và chính sách đầu tư theo chương trình dự án. Tất cả các công trình dự án đều phải tân thủ một cách nghiêm ngặt các trình tự đầu tư xây dựng cơ bản.

0