24/05/2018, 22:03

Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh

Tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá. Nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, ngày nay tín dụng được hiểu theo ngôn ...

Tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá. Nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, ngày nay tín dụng được hiểu theo ngôn ngữ thông thường là quan hệ vay mượn dựa trên những nguyên tắc:

- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản...

- Người đi vay chỉ sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay.

- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi vay.

Trong quá trình phát triển lâu dài của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển thông qua các hình thức: tín dụng Nhà nước, tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.

Tín dụng Ngân hàng là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển quyền sử dụng tạm thời một lượng vốn giữa Ngân hàng với khách hàng trong một thời gian nhất định và sau thời gian đó lượng vốn được hoàn trả cộng thêm phần lãi trên lượng vốn theo một lãi suất nhất định.

Tín dụng Ngân hàng được biểu hiện qua các quan hệ sau: quan hệ tín dụng Ngân hàng với kinh tế Nhà nước, giữa Ngân hàng với kinh tế NQD, với các cá nhân, quan hệ tín dụng giữa các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế, Ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, Ngân hàng đồng thời vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho vay, Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và các cá nhân. Khác với tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hóa, còn tín dụng Ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ bao gồm tiền mặt và bút tệ - chủ yếu là bút tệ.

Phân loại tín dụng ngân hàng

Có nhiều cách phân loại tín dụng theo những tiêu thức khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lí của ngân hàng, sau đây là một số cách phân loại phổ biến hiện nay:

  • Căn cứ vào thời gian cho vay, tín dụng gồm có:

+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay dưới 12 tháng, tín dụng ngắn hạn bao gồm các loại: cho vay bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ; chiết khấu chứng từ có giá; cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống với hộ tư nhân, cá thể.

+ Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay từ 12 tháng đến 60 tháng. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô vừa và nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.

+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn như: xây dựng nhà ở, các máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, đầu tư xây dựng các nhà máy, xí nghiệp.

  • Căn cứ vào mục đích sử dụng, tín dụng bao gồm:

+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá.

+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, các hàng hoá tiêu dùng... Tín dụng tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hoá.

  • Căn cứ vào sự bảo đảm cho vay, tín dụng bao gồm:

+ Tín dụng không có bảo đảm (tín chấp): là loại tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba để đảm bảo cho khả năng hoàn trả của khoản vay. Việc đi vay chỉ dựa vào uy tín của người vay hoặc bảo lãnh bằng uy tín của một bên thứ ba là các doanh nghiệp hay các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.

+ Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng mà khi Ngân hàng cấp tín dụng đòi hỏi người vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba (có thể bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hoặc bảo lãnh của tổ chức tín dụng khác) để đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay. Đây là loại tín dụng được tất cả các Ngân hàng áp dụng trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, đặc biệt là khoản vay lớn, các khoản đầu tư trung, dài hạn.

  • Căn cứ vào đối tượng, tín dụng bao gồm:

+ Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp để bổ sung vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh như mua nguyên vật liệu, hàng hoá dự trữ, chi cho các chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tín dụng vốn lưu động thường được sử dụng để bù đắp mức vốn lưu động tạm thời thiếu hụt. Thời gian cho vay vốn ngắn hạn thường dưới 12 tháng.

+ Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp để hình thành vốn cố định. Loại tín dụng này thường dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này trên 12 tháng.

  • Căn cứ vào hình thức ,tín dụng bao gồm:

+Chiết khấu:Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đên hạn(hoặc một giấy nợ).Đay chỉ là hình thức trao đổi trái quyền.

+Cho vay:Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian nhất định.Có nhiều loại cho vay:

Cho vay thấu chi

Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.Giới hạn naỳ được gọi là hạn mức thấu chi.

Cho vay trực tiếp từng lần.

Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,không có điều kiện để được cấp hạn mức thâu chi.Mỗi lần vay,khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay.Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay,xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân,thời hạn trả nợ,lãi suất và yeu cầu đảm bảo nếu cần.Mỗi món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau.

Cho vay theo hạn mức

Là nghiệp vụ tín dụng mà theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng.Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kỳ.Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.

Cho vay luân chuyển

Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa.Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ.hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một hoặc vài năm.

Cho vay trả góp

Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho taì sản cố định hoặc hàng lâu bền.Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ.

Cho vay gián tiếp

Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp.Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp-là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.

+Bảo lãnh:là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình thông qua uy tín của ngân hàng,qua đó để thu lợi.

+Cho thuê:Là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định.Sau thời gian nhất định, khác hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng

Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn.Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ(hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi.Hết hạn thuê,khách hàng có thể mua lạo tài sản đó.

Quy trình tín dụng

Quy trình tín dụng là tập hợp nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, các bước phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một món vay. Thông thường, để đảm bảo hiệu quả tín dụng thì quy trình tín dụng phải tuân theo các bước sau:

1. Khai thác khách hàng cũ, tìm kiếm dự án, khách hàng mới.

2. Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn.

3. Phân tích thẩm định khách hàng và phương án vay vốn.

4. Ra quyết định cho vay, thông báo đến khách hàng.

5. Kiểm tra, hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh.

6. Kiểm soát trong khi cho vay, phát tiền vay.

7. Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay, theo dõi hoạt động của dự án.

8. Thu hồi vốn và xử lý nợ.

9. Thanh lý hợp đồng tín dụng.

Quy trình tín dụng là bước quan trọng để thực thi chính sách tín dụng. Thực vậy, tuân theo các bước của quy trình tín dụng, Ngân hàng sẽ tìm kiếm, lựa chọn được khách hàng phù hợp, có uy tín, đạo đức. Khi áp dụng quy trình tín dụng cần phải sáng tạo mở rộng, nâng cao nghiệp vụ để trở thành kỹ năng, nghệ thuật cho vay của Ngân hàng và năng lực của từng cán bộ, phù hợp với yêu cầu đa dạng của thị trường.

Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt nam nói riêng.

ở mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế và chiến lược kinh tế - xã hội khác nhau cho nên vai trò tín dụng Ngân hàng được thể hiện và có những định hướng khác nhau. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhiệm vụ được đặt ra là tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói chung và hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng.

-Tín dụng Ngân hàng thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn nhàn rỗi đưa vào đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và góp phần tái sản xuất mở rộng nền kinh tế.

Vốn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh, kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh cũng như khi một loại hình sản xuất kinh doanh mới ra đời. Trong bất kỳ nền kinh tế hàng hoá nào cũng có nguồn tiền nhàn rỗi và chưa sử dụng trong mọi tổ chức, thành phần kinh tế. Tín dụng Ngân hàng đã tập trung các nguồn tiền đó thông qua hoạt động huy động vốn của mình theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trong quá trình hoạt động, các tổ chức kinh tế có thể mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng để phục vụ cho hoạt động giao dịch với các tổ chức khác và tiền gửi trong tài khoản của các đơn vị luôn phải có số dư nhất định. Nhờ vậy mà Ngân hàng có thể huy động những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế - xã hội và nguồn dự trữ chưa dùng đến của ngân sách Nhà nước, hình thành nên nguồn vốn. Từ đó, ngân hàng tiến hành phân phối các nguồn đó một cách có kế hoạch, đáp ứng nhu cầu của quá trình tái sản xuất mở rộng.

- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn.

Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng để sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên và sức lao động. Muốn phát huy thế mạnh về tài nguyên để chuyển hướng cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thì không thể thiếu vai trò của tài chính tiền tệ. Trong đó, tín dụng Ngân hàng tạo nguồn vốn bằng cách huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số trượt giá của đồng tiền để đầu tư vào các ngành, các công trình trọng điểm... Bên cạnh đó, Ngân hàng còn tập trung tín dụng tài trợ cho những ngành kinh tế mũi nhọn mà sự phát triển của các ngành này sẽ tạo cơ hội, cơ sở thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí, xây dựng cơ sở hạ tầng...

- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ.

Bằng việc nhận và trả tiền gửi, mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng với quy mô ngày càng lớn và có tính chất thường xuyên, liên tục. Hoạt động thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế diễn ra qua hệ thống NHTM đã làm tăng tốc độ luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ.

Ngoài ra, sự phát triển của các nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng đi đôi với việc thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông góp phần ổn định lưu thông tiền tệ. Đây cũng là một trong những phương thức để kiềm chế lạm phát.

- Tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.

Sự vận động của tín dụng Ngân hàng cũng như việc quản lý tập trung thống nhất công tác tín dụng đã tạo tiền đề khách quan cho tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng trên. Thông qua việc thực hiện phân phối lại tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả, phục vụ tái sản xuất mở rộng. Tín dụng Ngân hàng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén mối quan hệ giữa quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với tình hình hoạt động của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện pháp kịp thời phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Quá trình phản ánh và kiểm soát của tín dụng Ngân hàng là không thể tách rời nhau trong chức năng này. Do đó, nó được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế không thể thiếu được trong công tác quản lý tài chính, kiểm soát các quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội thực hiện và củng cố chế độ hạch toán kinh tế.

-Tín dung ngân hàng tham gia vào quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế NQD

Mặc dù nguồn vốn ban đầu của các cơ sở kinh tế NQD là chủ yếu dựa vào tích luỹ cá nhân, gia đình. Song vốn tín dụng cũng đóng góp một phần không nhỏ, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tư nhân được thành lập dựa trên cả 2 nguồn: tích luỹ và tín dụng. Trong năm 2004, trên 14 triệu hộ gia đình nông thôn trở thành hộ sản xuất kinh doanh được ngân hàng cho vay vốn. Đặc biệt, tín dụng ngân hàng đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần một bộ phận lớn trong khu vực kinh tế NQD. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanhcủa công ty cổ phần luôn xảy ra hiện tượng tạm thời thiếu hoặc thừa vốn. Tình trạng này được giải quyết thông qua quan hệ tín dụng. Việc phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng và mua bán cổ phiếu cùng được thực hiện thông qua thị trường vốn, thị trường tiền tệ là các mặt hoạt động có liên quan đến tín dụng ngân hàng.

Như vậy tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế NQD.

-Tín dụng ngân hàng góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp NQD

Thị trường đang trở nên cạnh tranh khốc liệt từng ngày. Để đứng vững trong thương trường, chiến thắng trong cạnh tranh các doanh nghiệp luôn chú trọng vào bốn lĩnh vực. Đó là: giá cả và chất lượng; sự kịp thời và bí quyết; cổ phần và chi phối; đầu tư chiều sâu. Đối với các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế NQD ở Việt Nam thì lĩnh vực được quan nhất đó là giá cả và chất lượng. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm với giá thành hợp lý thì phải đầu tư áp dụng khoa học công nghệ mới. ở đây khó khăn lại là vấn đề vốn. Tín dụng ngân hàng là yếu tố hợp lý nhất để tháo gỡ vấn đề này (hợp lý cả về số lượng, giá cả, lãi suất và thời hạn). Như vậy, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện nâng cao sức cạnh tranh cho khu vực kinh tế NQD.

- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp NQD hoạt động kinh doanh và đầu tư có hiệu quả

Tín dụng ngân hàng không phải rải đều bất kỳ cho khách hàng nào có nhu cầu mà chọn lọc khách hàng làm ăn có hiệu quả. Vì vậy, để tiếp cận tín dụng ngân hàng một cách dễ dàng trước hết các doanh nghiệp phải nỗ lực kinh doanh có hiệu quả.

Bên cạnh đó, khi cấp tín dụng cho một dự án đầu tư, thì trước đó quá trình thẩm định khắt khe của ngân hàng phải thấy được tính khả thi, hiệu quả của nó. Trong quá trình cho vay, ngân hàng luôn giám sát việc sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp. Do đó, chính tín dụng đã có khả năng loại trừ các dự án không khả thi. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

-Tín dụng ngân hàng là cầu nối cho các thành phần kinh tế NQD Việt Nam thiết lập quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế

Ngày nay trong quan hệ kinh tế quốc tế, sự hợp tác bình đẳng, cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển mạnh mẽ. Trong đó đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng nhất. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này. Nhưng thực tế hầu hết các chủ thể của khu vực kinh tế NQD không đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng sẽ là trở thủ đắc lực cho các doanh nghiệp NQD đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu.

Tóm lại, tín dụng ngân hàng có một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh. Với định hướng của Đảng và Nhà nước, các NHTM đang xây dựng một chiến lược về thị trường nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh, phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.

0