24/05/2018, 15:56

Vai trò của nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ sản

Nguyên liệu dùng vào sản xuất bao gồm nhiều loại nguyên liệu như: nguyên liệu chính, nguyên liệu phụ... Chúng tham gia một lần vào chu kỳ sản xuất và cấu thành thực thể sản phẩm. Nó là một trong những yếu tố chính của quá trình sản xuất. Vì ...

Nguyên liệu dùng vào sản xuất bao gồm nhiều loại nguyên liệu như: nguyên liệu chính, nguyên liệu phụ... Chúng tham gia một lần vào chu kỳ sản xuất và cấu thành thực thể sản phẩm. Nó là một trong những yếu tố chính của quá trình sản xuất. Vì vậy, nếu thiếu nguyên lỉệu không thể tiến hành được sản xuất.

Đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất thực chất là nghiên cứu một trong các yếu tố chủ yếu của sản xuất. Thông qua việc nghiên cứu này để giúp cho doanh nghiệp thấy rõ được ưu nhược điểm trong công tác cung cấp nguyên liệu đồng thời có biện pháp đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, đúng chủng loại và quy cách phẩm chất. Không để xảy ra tình trạng cung cấp thiếu nguyên liệu ngừng sản xuất, thừa nguyên liệu gây ứ đọng vốn sản xuất.

Đảm bảo tình hình cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu.

Để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất , đi đôi với việc đảm bảo các yếu tố lao động, tư liệu lao động, phải thực hiện tốt việc cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mà nguyên liệu của nó có những nét đặc trưng riêng. Đối với doanh nghiệp công nghiệp nguyên liệu gồm: nguyên liệu chính, nguyên liệu phụ, phế liệu. Đối với công ty xây lắp nguyên liệu gồm xi măng, sắt, thép, cát. Đối với doanh nghiệp nông nghiệp nguyên liệu gồm: hạt giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đối với sản xuất như ngành đường nguyên liệu là cây mía.

Trong điều kiện kinh tế thị trường nguyên liệu nhập về doanh nghiệp từ nhiều nguồn khác nhau như: tự nhập khẩu, liên doanh liên kết, đối lưu vật tư... Mỗi nguồn nhập lại có một giá mua, bán khác nhau. Vì vậy để đánh giá tình hình cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu không thể dựa vào giá thực tế của chúng mà phải biểu hiện khối lượng nguyên liệu thực tế cung cấp theo giá kế hoạch. Ngoài ra cần dựa vào tỷ lệ hoàn thành kế hoạch cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu.

Đảm bảo tình hình cung cấp về các loại nguyên liệu chủ yếu.

Trong thực tế sản xuất, doanh nghiệp có thể sử dụng vật liệu thay thế để sản xuất sản phẩm song điều đó không có nghĩa là đối với mọi nguyên liệu đều có thể thay thế được như: cây mía, cao su... Các loại nguyên liệu không thể thay thế được gọi là nguyên liệu chủ yếu, tham gia cấu thành thực thể sản phẩm. Để đảm bảo sản xuất không bị gián đoạn, trước hết doanh nghiệp phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các nguyên liệu chủ yếu.

Đảm bảo tình hình cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu mới chỉ biết được nét chung về vấn đề này. Mọi nhân tố cá biệt đã được bù trừ lẫn nhau. Ngay cả trong trường hợp doanh nghiệp hoàn thành vượt mức kế hoạch cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu, nhưng tình trạng ngừng sản xuất vẫn xảy ra, nếu doanh nghiệp không hoàn thành kế hoạch cung cấp về nguyên liệu chủ yếu cho quá trình sản xuất.

Đảm bảo tình hình cung cấp về các loại nguyên liệu chủ yếu, nhằm mục đích thấy rõ ảnh hưởng của việc cung cấp nguyên liêụ đối với việc đảm bảo tính liên tục của chu trình sản xuất ở doanh nghiệp.

Khi đảm bảo cung cấp nguyên liệu không lấy nguyên liệu cung cấp vượt kế hoạch để bù cho loại nào đó không đạt mức kế hoạch. Điều đó có nghĩa là chỉ cần một loại nguyên liệu chủ yếu, khối lượng cung cấp thực tế thấp hơn kế hoạch là đủ kết luận doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch cung cấp về các loại vật tư chủ yếu.

Khi nhịp điệu sản xuất khẩn trương, việc nắm bắt kịp thời tiến độ cung cấp các loại nguyên liệu chủ yếu là cần thiết đối với mọi doanh nghiệp sản xuất. Bởi vì nó liên tục trực tiếp đến tiến độ sản xuất. Tuỳ thuộc trọng điểm nguyên liệu cần quản lý một cách sát sao, mà xác định loại nào cần thường xuyên phân tích và ra thông báo kịp thời để chấn chỉnh tồn tại ở khâu cung cấp.

Khi thường xuyên phân tích tình hình cung cấp về các loại nguyên liệu chủ yếu thường sử dụng chỉ tiêu số ngày đảm bảo sản xuất , dựa vào chỉ tiêu này có thể biết được đến một ngày nào đó, số lượng nguyên liệu hiện còn đủ sản xuất trong bao nhiêu ngày.

Đảm bảo tình hình khai thác các nguồn nguyên liệu

Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp có quyền chủ động trong việc khai thác các nguồn nguyên liệu để đảm bảo sản xuất. Bên cạnh khối lượng nguyên liệu nhập từ các đơn vị cung ứng vật tư của Nhà nước, doanh nghiệp có thể tự nhập khẩu, liên doanh liên kết và nhập từ các nguồn khác. Mở ra cơ chế mới trong việc cung cấp nguyên liệu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thoát khỏi sự bế tắc, kéo dài trong một thời kỳ bao cấp chờ đợi Nhà nước cung ứng, trong khi bản thân Nhà nước không đáp ứng nổi.

Để thấy rõ thành tích của doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch cung cấp nguyên liệu, một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng là phải chỉ ra cho được tình hình khai thác của nguồn khả năng về nguyên liệu để đảm bảo nhu cầu sản xuất.

Khi nghiên cứu vấn đề này, có thể so sánh trị giá nguyên liệu thực tế từng nguồn cung cấp với tổng trị giá nguyên liệu kế hoạch, cũng như với tổng giá trị nguyên liệu thực tế cung cấp. Qua đó sẽ thấy được tỷ trọng của từng nguồn trong tổng giá nguyên liệu được cung cấp trong kỳ.

Khối lượng nguyên liệu cung cấp trong kỳ là có liên quan mật thiết với tình hình sản xuất dự trữ và sử dụng nguyên liệu. Khi phân tích cần đặt nó trong mối quan hệ với các nhân tố trên để kết luận được đầy đủ và sâu sắc. Trên thực tế, có khi khối lượng nguyên liệu cung cấp tăng nhưng phẩm chất quy cách không đảm bảo sẽ dẫn đến tình trạng gây khó khăn cho sản xuất. Ngay cả trong trường hợp chất lượng và quy cách nguyên liệu đảm bảo, nếu khối lượng sản xuất không tăng mà tăng khối lượng nhập sẽ dẫn đến ứ đọng vốn. Vì thế, vấn đề có tính nguyên tắc đặt ra cho công tác cung cấp nguyên liệu ở mỗi doanh nghiệp cần phải quán triệt là: đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, đúng chủng loại và quy cách phẩm chất nhằm phục vụ tốt cho quá trình sản xuất kinh doanh ở bất cứ doanh nghiệp nào.

Phát triển nguyên liệu trong công nghiệp chế biến nông sản

Chế biến nông sản là chế biến sản phẩm của ngành trồng trọt. Muốn có nguyên liệu cho việc chế biến phải phát triển ngành trồng trọt.

Ngành trồng trọt cung cấp cho xã hội nhu cầu chủ yếu về lương thực cho con người và gia súc, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, hoa quả, rau xanh cho bữa ăn hàng ngày của con người, sản phẩm hàng hóa cho xuất khẩu và cũng chính cây trồng của ngành nông nghiệp cung cấp cây xanh tạo nên lá phổi của trái đất, góp phần cân bằng sinh thái cho quả đất chúng ta. Như vậy, sản phẩm của ngành trồng trọt rất đa dạng và phong phú.

Ngành trồng trọt sản phẩm chủ yếu là sản phẩm cây trồng. Vì nó là sản phẩm của ngành trồng trọt do đó sản lượng sản phẩm trước hết tuỳ thuộc vào diện tích gieo trồng, năng suất cây trồng. Diện tích gieo trồng phụ thuộc vào thiên tai, chất đất, loại đất và thời vụ mà người ta gieo trồng, nhiều loại giống cây trồng khác nhau mỗi loại giống cây trồng có năng suất thu hoạch khác nhau do đó khi thay đổi giống cây trồng, tức là thay đổi cơ cấu diện tích gieo trồng, tuỳ năng suất từng loại cây trồng có thể thay đổi năng suất thu hoạch bình quân. Nếu chúng ta thay đổi sản lượng cây trồng cuối cùng phải tiến hành cải tạo đất, thứ hạng đất từ đó làm tăng năng suất tăng sản lượng cây trồng.

Vì vậy muốn tăng sản lượng cây trồng phục vụ cho công nghiệp chế biến nông sản ta phải tăng diện tích gieo trồng, diện tích mất trắng, cơ cấu diện tích gieo trồng và năng suất từng loại cây trồng.

Tầm quan trọng của nguyên liệu trong công việc chế biến nông sản nói chung và với ngành đường nói riêng.

Trong công nghiệp chế biến nông sản thì nguyên liệu là vấn đề hàng đầu, quyết định sự sống còn và phát triển của nhà máy. Thiếu nguyên liệu trong sản xuất, kinh doanh sẽ trì trệ, lãng phí máy móc, thiết bị, công nhân sẽ không có công ăn việc làm, đời sống khó khăn. Do đó giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu được các nhà máy đặc biệt quan tâm chú ý, đó là một nhiệm vụ trong sản xuất kinh doanh.

Đặc điểm của nguyên liệu chế biến thường là nguyên liệu tươi, cồng kềnh, khó bảo quản, không dự trữ được lâu, gieo trồng và thu hoạch mang tính thời vụ nhất định. Trong khi đó nhu cầu của doanh nghiệp chế biến đường là: sản xuất liên tục, nguyên liệu tươi, thu hoạch xong phải đưa vào chế biến ngay, nếu để lâu chất lượng sẽ giảm. Mía sau khi thu hoạch cứ một ngày để lâu lại trên bãi chất lượng mía giảm 0,03 trữ đường, nếu để quá thời hạn cho phép thì đường sẽ biến chất không ra được sản phẩm đường, mà ra một sản phẩm khác, thậm chí còn làm hỏng một lô mía khác.

Mặt khác trong sản xuất nông nghiệp các loại cây trồng thường tranh chấp lẫn nhau, không ổn định. Trồng mía sau mỗi năm mới cho thu hoạch nếu không có chính sách hợp lý nông dân sẽ bỏ trồng mía mà chuyển trồng cây hoa màu khác như cây ngô, khoai, sắn, cao su.... Thực tế ở nước ta trong nhiều năm qua một số nhà máy do không giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu nên sản xuất bị đình đốn, kém hiệu quả thậm chí còn bị đóng cửa, dỡ bỏ nhà máy đi nơi khác.

Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 thực dân Pháp đã xây dựng ở miền Đông Nam Bộ hai nhà máy đường nhưng do không giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu hai nhà máy bị thải, bỏ.

Năm 1961 Nhà nước ta đầu tư xây dựng nhà máy đường Vạn Điểm công suất 1.000 tấn mía/ngày. Qua bao nhiêu năm vẫn không đủ nguyên liệu cho nhà máy sản xuất, từ năm 1962 đến 1983 trong 21 năm chỉ thu mua được 1.312.486 tấn mía, bình quân mỗi năm chỉ thu mua và chế biến được 62.516 tấn mía. Trong khi đó yêu cầu nguyên liệu của nhà máy là 160.000 tấn/năm. Bước sang thời kỳ đổi mới xoá bỏ bao cấp, mỗi năm nhà máy chỉ thu mua được 30.000 tấn mía. Do không giải quyết được nguyên liệu từ năm 1996 đến nay nhà máy đóng cửa không sản xuất và đang có phương án dỡ bỏ đi nơi khác.

Tiếp đó là nhà máy đường Sông Lam - Nghệ An cũng được xây dựng năm 1961, công suất 500 tấn mía/ngày, hàng năm yêu cầu 70.000 tấn mía nguyên liệu nhưng trong suốt 20 năm hoạt động, bình quân mỗi năm nhà máy chỉ thu mua và chế biến được 32.000 tấn, chưa đạt 50% nguyên liệu, hiệu quả sản xuất thấp.

Cũng trong bối cảnh đó nhà máy đường Việt Trì - Vĩnh Phú trong nhiều năm sản xuất bị thua lỗ, nợ Nhà nước ngày một tăng, nguyên liệu vận chuyển về nhà máy 2 - 3 ngày mới đủ ép một ngày, cũng do thiếu nguyên liệu.

Nhà máy đường Lam Sơn công suất 1.500 tấn mía/ngày hàng năm yêu cầu từ 225.000 đến 250.000 tấn mía để sản xuất ra 22.500 đến 25.000 tấn đường. Được Nhà nước đầu tư xây dựng từ đầu năm 1980 đến cuối năm 1986 nhà máy căn bản hoàn thành và đi vào hoạt động. Là nhà máy có quy mô hiện đại, thiết bị toàn bộ của pháp, công nghệ sản xuất tiên tiến nhưng trong giai đoạn đầu từ 1986 - 1990 khó khăn nhất là thiếu nguyên liệu, liên tục trong suốt 4 năm liền nhà máy chỉ sử dụng được 10% công suất thiết bị (vụ mía 1986 - 1987 thu mua và chế biến 9.600 tấn mía, vụ bằng 4% công suất, vụ mía 1987 - 1988 thu mua được 24.000 tấn mía, vụ mía 1988 - 1989 thu mua được 36.000 tấn mía bằng 12% công suất), nhà máy đứng trước nguy cơ phải đóng cửa, thậm chí có phương án tháo dỡ nhà máy đưa vào miền Nam.

Từ những dẫn liệu trên đây chúng ta có thể khẳng định rằng xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu là vấn đề then chốt có tính chất quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của nhà máy nhất là trong giai đoạn đến năm 2000 Nhà nước ta đang có chủ trương thực hiện chương trình mía đường trong cả nước đạt 1 triệu tấn đường và đang xúc tiến xây dựng một loạt nhà máy, do đó việc xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu là bài học cho tất cả các nhà máy đường đã và sẽ xây dựng, việc quy hoạch xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu vừa là bước khởi đầu, vừa là khâu quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một nhà máy.

0